Mình xin giới thiệu tới các bạn một số mỹ nhân đã đi vào sử sách
trong lịch sử Trung Hoa, họ là những người, những phụ nữ đầy tài hoa đã
gây ảnh hưởng một thời trong quá khứ. Những ảnh kèm theo trong bài là
những ảnh fantasy mang tính chất tượng trưng để đại diện cho những mỹ
nhân này. Trong đó có một số mỹ nhân mình không có thông tin, hoặc thông
tin không đầy đủ, nếu bạn nào có thì bổ sung giúp mình nha!
1 – Tây Thi (Trầm Ngư)Tây
Thi, còn gọi là Tây Tử, tên Di Quang, là một giai nhân tuyệt sắc ở nước
Việt (một nước thuộc tỉnh Triết Giang, Giang Tô và một phần Sơn Ðông
ngày nay) thời Chiến Quốc. Nàng xuất thân từ một gia đình nghèo, cha đốn
củi, nàng dệt vải ở thôn Trữ La. Trữ La có hai thôn: Ðông thôn và Tây
thôn, phần nhiều họ Thi. Vì nàng ở Tây thôn nên gọi là Tây Thi. Bạn nàng
là Trịnh Ðán cũng là một giai nhân sắc nước, hương trời. Nhà ở gần
sông, ngày ngày hai nàng cùng nhau ra đập sợi ở ven sông. Má hồng, nước
biếc, hai bóng lộn nhau trông như hai đóa phù dung của buổi bình minh
tươi đẹp. Vua nước Việt là Câu Tiễn bại trận, phải cùng vợ sang làm
người tù chăn ngựa cho vua Ngô. Sau khi được thả về, lòng uất ức căm
hờn, mong rửa thù. Ðại phu Văn Chủng hiến cho 7 kế phá Ngô. Một trong 7
kế là đem mỹ nữ sang dâng để mê hoặc vua Ngô. Câu Tiễn liền thực hành
ngay. Trong vòng nửa năm tuyển được 2,000 mỹ nữ, lại chọn 2 người đẹp
nhất là Tây Thi và Trịnh Ðán. Câu Tiễn sai Tướng quốc là Phạm Lãi đem
100 nén vàng đến thôn Trữ La rước 2 nàng về, trang sức lộng lẫy, cho
ngồi trong xe có màn phủ. Người trong nước nghe tiếng mỹ nữ, ai cũng
muốn xem mặt, tranh nhau ra ngoài đón coi. Ðường phố chật cứng! Phạm Lãi
liền để 2 nàng trong quân xá rồi truyền dụ rằng: “Ai muốn xem mặt mỹ
nhân phải nộp một đồng tiền.” Chỉ trong một lúc ngắn mà tiền thu đầy
quỹ. Hai nàng lên lầu, đứng tựa bao lơn, trông không khác nào tiên nga
giáng hạ. Hai nàng lưu ở ngoài kinh thành 3 ngày, tiền thu không kể
xiết. Câu Tiễn cho hai nàng ở riêng tại Thổ thành, rồi sai lão nhạc sư
đến dạy múa hát. Ba năm qua, Tây Thi và Trịnh Ðán cùng một số mỹ nữ đã
học múa hát thành thạo. Câu Tiễn liền truyền Phạm Lãi đem sang cống cho
vua Ngô là Phù Sai. Phù Sai vừa trông thấy hai nàng là xính vính, cho là
thần tiên giáng trần, hồn phách mê mẩn, mắt nhìn như ngây, như dại ….
Tây Thi và Trịnh Ðán được Phù Sai cực kỳ yêu mến. Nhưng riêng Tây Thi vì
có sắc đẹp lộng lẫy lại khéo chiều chuộng, có nghệ thuật làm người say
đắm nên Ngô vương sủng ái hơn: Tây Thi được ở đài Cô Tô với Phù Sai.
Trịnh Ðán ghen với Tây Thi, uất ức không nói được, một năm sau thì chết!
Phù Sai đem chôn ở Hoàng mao sơn và cho lập đền thờ. Tây Thi có chứng
đau bụng. Mỗi lần đau thì nhăn mặt, mà nhăn mặt thì lại đẹp thêm! Phù
Sai đắm đuối trước nét đẹp thiên kiều bá mị của Tây Thi. Phù Sai xây
cung Quán Khuê ở núi Linh Nham, trang trí toàn bằng châu ngọc để làm
cảnh cho Tây Thi đi dạo, ngắm cảnh. Lại cất Hưởng điệp lan, Ngoạn hoa
trì, Ngoạn nguyệt trì, Ngô vương tỉnh, v.v… để Tây Thi ngắm hoa lan, coi
ao hoa, thưởng trăng và soi bóng mình dưới giếng. Phù Sai lập cầm đài
để Tây Thi đàn những cung đàn tuyệt diệu cho Phù Sai thưởng thức. Phù
Sai lại cho đào một con sông nhỏ ở trong thành, rồi cùng Tây Thi dong
thuyền, gọi là Cẩm phàm hình. Và còn nhiều nữa, kể không hết. Từ khi
được Tây Thi, Phù Sai cứ ở luôn trên Cô Tô đài, bốn mùa vui chơi, không
thiết gì đến việc nước. Tây Thi, con người kiều diễm ấy, tuy có thân
hình mảnh mai như cành liễu yếu mềm nhưng tiềm tàng một ý chí phi thường
là quyết lật đổ cả một triều Ngô. Hai bàn tay ngà ngọc xinh xắn ngày
nào dệt vải, quay tơ nhưng nay lại dùng để bóp nát cả một nước Ngô binh
hùng, tướng mạnh. Mắt nàng cau một cái là một cái đầu rơi. Môi nàng cười
một nét là kho nhà Ngô vơi đi bạc vàng, châu báu. Ngũ Viên, một vị
tướng quốc kiên trung, đa mưu túc trí, đầy tài dũng lược đã vì nàng mà
chết dưới thanh kiếm Chúc lâu của Phù Sai! Nước Ngô ngày càng suy yếu.
Nước Việt thừa thế tấn công. Ngô bại trận, Phù Sai tự tử.
Tây Thi
làm tròn sứ mạng đối với tổ quốc; xin được về lại thôn Trữ La. Nhưng
vương phi của Câu Tiễn sợ rằng chồng sẽ mê say sắc đẹp Tây Thi nên bí
mật sai người bắt Tây Thi neo đá quăng xuống dòng sông Tam giang. Ðó là
viết theo chính sử.
Có truyện chép : Phạm Lãi yêu Tây Thi nhưng thấy
Câu Tiễn muốn lấy Tây Thi nên ghen; sau đó, bày mưu cho vợ Câu Tiễn
giết Tây Thi.
Có truyện lại chép: Phạm Lãi trước đã cùng Tây Thi yêu
nhau. Vì vậy, khi đốt phá đài Cô Tô, Phạm Lãi đã đón Tây Thi xuống
thuyền, rồi cả hai bỏ nước đi du Ngũ hồ cho trọn cuộc tình. Có lẽ người
đời sau giàu tình cảm và trí tưởng tượng nên không nỡ chia lìa đôi trai
tài gái sắc Phạm Lãi – Tây Thi nên tạo câu chuyện du Ngũ hồ để an ủi oan
hồn Tây Thi chăng?
2 – Điêu Thuyền ( Bế Nguyệt)Ðiêu
Thuyền bị loạn Ðổng Trác nên gia cảnh tan tành, cha mẹ bị giết hết,
phiêu bạt lênh đênh, xin vào làm người ở cho quan Tư đồ Vương Doãn. Thấy
nàng đẹp, có tài hát hay, đàn giỏi nên Vương Doãn nhận làm con nuôi.
Ðổng
Trác vốn làm chức quan nhỏ nhưng nhờ khéo léo dùng lễ vật làm nhân
tình, lo lót nên thăng đến chức quan cao, thống lãnh hơn 200,000 quân ở
Hiệp Tâỵ Lòng tham không đáy, Ðổng Trác nuôi mộng chiếm luôn ngôi vua.
Nhân
dịp triều đình bị loạn Thập thường thị (10 tên hoạn quan), Ðổng Trác
lấy cớ bảo giá kéo quân về triều. Ðổng Trác chuyên quyền, khống chế các
quan, giết vua Thiếu đế, Hà hậu, và Ðường phi. Ðổng Trác vào cung gian
dâm cùng cung nữ và ngủ luôn trên long sàng, làm nhiều điều ngang ngược.
Ðổng
Trác có đứa con nuôi tên Lữ Bố, sức đánh trăm người nên Ðổng Trác càng
kiêu ngạo, hống hách. Ai chống đối thì bị giết ngay. Trước sự tàn bạo
của Ðổng Trác, lòng dân căm phẩn, tất cả 18 chư hầu nổi lên nhưng đều bị
Lã Bố dẹp yên. Ðại thắng, hắn càng kiêu căng. Và càng thẳng tay giết
chóc.
Vương Doãn nghĩ đến hành vi lộng quyền, sát nhân của Ðổng Trác
mà xốn xang, phiền muộn và muốn tìm cách giết đi . Mãi suy nghĩ mà chưa
ra một kế nào thì một hôm, Ðiêu Thuyền nói với Vương Doãn rằng nàng
tình nguyện làm bất cứ điều gì để báo ơn nuôi dưỡng của Vương Doãn.
Vương Doãn cả mừng nói:
“Cha tin lòng của con nhưng ngại con không
thực hiện được. Nguyên cha con thằng Ðổng Trác là phường hiếu sắc, bây
giờ cha muốn dùng “liên hoàn kế”, trước đem con hứa gả cho Lữ Bố rồi sau
lại hiến con cho Ðổng Trác. Con ở giữa tùy cơ ứng biến làm cho hai cha
con nó trở lại giết hại lẫn nhau.
Nếu làm được như vậy là con liều thân giúp nước, công nghiệp vô cùng to lớn.”
Ðiêu
Thuyền vâng lời. Vương Doãn bày tiệc tại nhà, mời Lữ Bố đến dự Trong
bữa tiệc, Vương Doãn không ngớt lời ca tụng sức mạnh oai dũng của Lữ Bố
làm cho Lữ Bố hừng chí, uống rượu hết bát này đến bát khác. Ðộ một lát,
Vương Doãn truyền quân hầu đi nghỉ, chỉ để vài thị nữ ở lại châm rượu.
Khi thấy Lữ Bố đã thấm hơi men, Vương Doãn truyền thị nữ phò Ðiêu Thuyền
ra Mặt hoa mơn mởn, lại trang điểm vô cùng diễm lệ, mình liễu uyển
chuyển, Lữ Bố vừa trông thấy giựt nẩy mình, tưởng là tiên nữ hạ phàm,
nhìn không chớp mắt! Vương Doãn bảo Ðiêu Thuyền mời rượu Lữ Bố. Nàng uốn
hai bàn tay ngà ngọc nâng ly rượu mời, anh mắt long lanh như sóng nước
hồ thu đưa tình, bốn mắt nhìn nhau, rồi lại nhìn nhau nữa khiến cho kẻ
ngẩn ngơ, người ngơ ngẩn. Vương Doãn giả say. Lữ Bố mời Ðiêu Thuyền
ngồi. Có phải là “Tình trong như đã, mặt ngoài còn e” không? (!) Lữ Bố
rõ ràng là “chết ngắc”, cứ ngồi ngây người ra như tượng gỗ! Sau đó,
Vương Doãn bảo Lữ Bố:
“Lão muốn đưa con gái lão qua làm tiểu thiếp
tướng quân để hầu hạ trang anh hùng duy nhất thời nay. Chẳng hay tướng
quân có lòng thương yêu dung nạp không?”
Tất nhiên là Lữ Bố còn gì
sung sướng cho bằng. Vương Doãn lại bảo là để chọn ngày lành rồi nay mai
sẽ đưa Ðiêu Thuyền sang làm vợ Lữ Bố.
Ngày hôm sau, Vương Doãn lại
mời Ðổng Trác đến nhà ăn tiệc. Vương Doãn ra lệnh tấu nhạc, rồi mời Ðổng
Trác uống rượu. Khi trời về chiều, rượu đã ngà say Vương Doãn mời Ðổng
Trác vào hậu đường. Bấy giờ, đuốc hoa đốt lên ráng rực cả nhà. Vương
Doãn chỉ giữ lại mấy cô hầu dâng rượu, rồi thưa với Ðổng Trác:
“Nhà
cũng có phường giáo nhạc nhưng sợ kém cỏi vụng về, sợ không đẹp ý Thái
sư nên không cho ra diễn tấu. Duy còn một kỳ nữ tài hoa khá lắm, xin cho
phép gọi ra hầu.”
Ðổng Trác đồng ý ngay. Vương Doãn liền sai kéo
rèm. Rèm châu vừa cuốn lên, cùng với tiếng đàn phách sinh huỳnh vang lên
thánh thót là Ðiêu Thuyền nhè nhẹ gót hài bước ra, xiêm y tha thướt,
mình liễu uyển chuyển múa trước rèm châu như thiên tiên nhập động …Có
bài ca khen Ðiêu Thuyền rằng:
Phải người cung cũ Chiêu Dương?
Xiêm y mây cuốn vương vương cánh hồng
Nhẹ nhàng mình liễu như bông,
Gót hài uyển chuyển trên lòng bàn taỵ
Ðộng đình lạc lối hoa bay,
Lương châu thoăn thoắt sen cài bước chân
Nhà vàng gió cợt cành xuân,
Trăm hoa nhường vẻ thanh tân một người!
(Chú
giải: Bài ca này có ý khen Ðiêu Thuyền đẹp như nàng Triệu Phi Yến ở
Chiêu Dương cung của Hán Thành đế: hai bàn chân nhỏ bằng hai ngón tay
cái làm cho lúc đi thân hình trở nên uyển chuyển nhẹ nhàng, có thể đứng
trên bàn tay người ta được (Ðây là chuyện thật của tục bó chân ngày
xưa.)
Ðổng Trác nhìn đắm đuối, đờ đẫn như kẻ mất hồn, ngây ngẩn ngẩn
ngây. Ðiêu Thuyền lại cầm phách, gõ nhịp cất tiếng ca. Giọng trong như
oanh kêu, cao như hạc gọi, khi trầm khi bổng, nghe thánh thót như rót
vào tai, mà huyền huyền ảo ảo làm mê hồn tục khách! Ðó chính là:
Nhất điểm anh đào khải giáng thần
Lưỡng hàng toái ngọc phún dương xuân
Ðinh hương thiệt thổ hành cương kiếm
Yêu trảm tà gian loạn quốc thần!
Một đóa anh đào chúm chím môi,
Ðôi hàng răng ngọc rạng xuân tươi.
Hương đưa đầu lưỡi tàng hơi kiếm:
Chém chết gian thần có lúc thôi!
Trong
cơn say rượu thịt, sắc đẹp, hát hay, múa giỏi thì đúng là … Ðổng Trác
“hồn phi, phách tán”. Vương Doãn lại hứa dâng hiến Ðiêu Thuyền cho Ðổng
Trác.
Sau đó, Ðiêu Thuyền về làm vợ cho Ðổng Trác nhưng lại “câu rê”
Lữ Bố để càng ngày càng ly gián hai cha con ra. Trong hậu trường, hai
cha con Ðổng Trác và Lữ Bố ngày càng thù ghét nhau chỉ vì “đòn sóc hai
đầu” của Ðiêu Thuyền.
Một hôm, Ðổng Trác bị cảm, Ðiêu Thuyền tận tụy
chầu chực thuốc men, cơm cháo. Trác lấy làm vui lòng lắm. Bố nghe tin
vào phòng vấn an. Vừa lúc Trác còn ngủ, Ðiêu Thuyền đứng sau giường nhìn
Lữ Bố, lấy tay chỉ lòng mình rồi lại chỉ Ðổng Trác và hai hàng lệ chảy
ròng trên má. Bố đau đớn vô cùng. Ðổng Trác giựt mình thức dậy, thấy Lữ
Bố đứng nhìn sau giường mãi thì trở mình qua, lại thấy Ðiêu Thuyền nên
nổi giận nạt Lữ Bố:
-Sao mi dám giễu cợt ái cơ ta?
Một lần khác, Lữ Bố lén gặp Ðiêu Thuyền. Ðiêu Thuyền tỏ vẻ tươi cười bảo Lữ Bố:
-Lang quân ra sau vườn đến Phụng nghi đình mà chờ thiếp.
Ðiêu Thuyền trang điểm xong, vội vàng bước ra Phụng nghi đình gặp Lữ Bố, rưng rưng nước mắt nói:
-Thiếp
tuy là con nuôi của quan Tư đồ song người coi như con đẻ. Người gả
thiếp cho lang quân là chọn chỗ xứng đáng cho thiếp trao thân, gởi phận.
Mừng chưa kịp no, không dè Thái sư (tức Ðổng Trác) lòng trâu dạ chó,
bắt thiếp cưỡng bức như thế này. Sở dĩ thiếp chưa chịu chết vì chưa gặp
mặt chồng. Nghĩ lại thiếp ngày nay chẳng khác hoa tàn, nhụy rữa còn
phụng sự anh hùng sao đặng. Vậy thiếp xin tự tử trước mặt lang quân để
lang quân hiểu rõ nỗi lòng của thiếp.
Nói xong Ðiêu Thuyền nhắm ngay ao sen toan nhảy xuống. Lữ Bố lật đật ôm lại, cảm động nói:
-Ta biết rõ lòng nàng lắm rồi
Gặp đã lâu, Lữ Bố sợ Ðổng Trác về bắt gặp nên xách kích muốn đi. Ðiêu Thuyền nói:
-Thiếp ở chốn khuê phòng nghe danh tiếng lang quân anh hùng trên đời có một, không ngờ lại bị có người kiềm chế như thế!
Nói
rồi lại khóc òa lên như mưa như gió một cách bi thảm. Bố lấy làm thẹn
thùa, xấu hổ để kích xuống, ôm lấy Ðiêu Thuyền, rút khăn chậm nước mắt
cho nàng, tìm lời vỗ về an ủi. Hai người đang bịn rịn, âu yếm, không nỡ
buông nhau thì thấy Ðổng Trác! Trác nổi máu ghen sùng sục, Lữ Bố hoảng
hồn bỏ chạy, quên cả cây kích dựa lan can. Trác cúi xuống, cầm kích
phóng ngay vào người Lữ Bố nhưng không trúng.
Sau đó, do lời khuyên của Lý Nhu, Ðổng Trác muốn gả Ðiêu Thuyền cho Lữ Bố nên gọi Ðiêu Thuyền vào và nói:
-Sao mi dám tư thông với thằng Lữ Bố?
Ðiêu Thuyền khóc nấc lên rồi kể:
-Thiếp
đương xem hoa nơi sau vườn, thình lình Lữ Bố bước vào, thiếp hoảng sợ
toan chạy trốn. Hắn nói hắn là con của Thái sư, không hề chi, rồi cầm
kích rượt thiếp đến Phụng nghi đình. Thấy nó sinh tâm xấu xa như vậy,
thiếp định liều mình nhảy xuống ao sen. Nó lại ôm cứng lấy thiếp.
Ðương
cơn bối rối thì vừa may ngài vào kịp nên thiếp mới toàn tính mạng. Vậy
mà Thái sư không thương lại còn nói oan, nói xấu cho thiếp.
Trác nói:
-Ý ta muốn gả mi cho Lữ Bố, vậy mi có bằng lòng không?
Ðiêu Thuyền thất sắc, nức nở:
-Thiếp
đã thất thân với Thái sư, bây giờ Thái sư lại nỡ lòng đem đưa thiếp cho
con là một thằng thất phu như thế thì trái đạo quá. Vậy thiếp thà chết
còn hơn sống mà chịu nhơ danh.
Nói xong Ðiêu Thuyền bước lại rút lấy
gươm treo trên vách toan đâm vào cổ. Trác hốt hoảng, vội giựt gươm, ôm
Ðiêu Thuyền vào lòng, v.v….
Cuối cùng, trong âm mưu với Vương Doãn và Lý Túc, chính Lữ Bố là người cầm kích đâm ngay yết hầu của Ðổng Trác.
Tây
Thi với Ðiêu Thuyền cùng lấy sắc khuynh thành. Nhưng việc làm của Tây
Thi còn dễ, việc của Ðiêu Thuyền khó hơn. Tây Thi chỉ phải đánh ngã một
mình Ngô Phù Sai. Ðiêu Thuyền phải đồng thời đánh ngã cả Lữ Bố và Ðổng
Trác. Phải luôn luôn nghĩ mưu kế trong lòng, thay đổi bộ mặt để đối phó
với cả hai bên. Ta nghĩ rằng cái công của Ðiêu Thuyền đáng ghi vào sử
xanh.
Nếu như, khi Ðổng Trác bị giết rồi, Vương Doãn không vụng về
mà gây ra cái loạn Lý Thôi, Quách Dĩ thì cơ đồ nhà Hán đã phục hưng ngay
từ đó. Và như thế thì một cô gái như Ðiêu Thuyền há lại không đáng ghi
tên vào nơi Phượng các, không được tô tượng ở chỗ Lân đài hay sao ?
Cái
tuyệt diệu của kế “liên hoàn” không phải là làm cho Lữ Bố giết Ðổng
Trác đâu. Ngược lại, nhằm làm cho Ðổng Trác giết Lữ Bố. Nếu Trác cầm
kích, phóng trúng Lữ Bố tức là Trác đã tự chặt một cánh tay và Trác sẽ
bị tiêu diệt dễ dàng. Ðó mới là chủ ý.
Riêng ta, ta yêu nàng Tây Thi
thật lòng trở về với Phạm Lãi; và yêu nàng Ðiêu Thuyền giả vờ sống chết
với Lữ Bố. Bởi vì tuy thân đứng trước Lữ Bố, nhưng lòng Ðiêu Thuyền bao
giờ cũng chỉ nghĩ đến báo công nuôi dưỡng cho Vương Doãn mà thôi.
3 – Chiêu Quân Chiêu
Quân tên thật là Vương Tường, là một cung phi của vua Nguyên đế nhà Hán
(48 – 53 trước Tây lịch). Lúc bấy giờ vua nằm mộng thấy mỹ nhân cùng
giao ước 100 năm. Nhà vua cứ ngày đêm mơ tưởng đến người trong mộng nên
truyền các quan địa phương tìm cho được người đẹp trong giấc mộng. Thái
sư Mao Diên Thọ lãnh phần việc ấy. Mao Diên Thọ thừa “nước đục thả câu”,
ăn hối lộ của cung phi. Hễ ai đút lót tiền thì cho vẽ đẹp đẽ, xinh tươi
dâng lên vua. Chiêu Quân đẹp nhất nên không chịu lo lót, lại còn xỉ vả
Mao Diên Thọ. Do đó, khi cầm bức vẽ Chiêu Quân, hắn lấy viết chấm dưới
mắt Chiêu Quân một chấm làm thành nốt ruồi. Rồi khi dâng tranh lên vua,
hắn sàm tấu rằng Chiêu Quân tuy đẹp nhưng có nốt ruồi mà sách tướng gọi
là “thương phu trích lệ”. Ðó là nốt ruồi sát phu. Nhà vua nghe vậy nên
không đoái hoài đến Chiêu Quân. Nhưng nhờ tiếng đàn tuyệt diệu, Chiêu
Quân đã khiến cho Hoàng hậu thấu rõ oan tình và dàn xếp cho gặp Hán
vương. Chiêu Quân được phong làm Tây Cung vì nhà vua nhận ra đúng là
người đã gặp gỡ trong mộng. Mao Diên Thọ bị kết án nhưng trốn được qua
đất Hồ, đem dâng Phiên chúa bức tranh của Chiêu Quân làm Phiên chúa say
đắm! Giặc Hung Nô khởi loạn, binh Hán đại bạị Phiên chúa đòi phải cống
Chiêu Quân thì mọi việc được yên. Trước cảnh giang sơn nghiêng ngửa, vua
Hán đành phải ngậm ngùi đưa Chiêu Quân sang cống Hồ. Khi qua ải Nhạn
Môn, trong nỗi niềm thương nước nhớ nhà, giận kẻ gian thần, nàng xuống
kiệu, hướng về quê hương và dùng đàn khảy lên khúc “Khúc quá quan”.
Giọng đàn bi ai thảm thiết, mọi người theo đưa đều não lòng nhỏ lệ Cây
cỏ bên đường cũng héo hắt, gục xuống mặt đất như để buồn lây … Nhìn một
con chim lẻ cánh bạt gió về chiều, nàng xót xa cảm cho thân thế, cất
tiếng ngâm:
Cánh én cô đơn đượm tủi sầu,
Ngang trời gió cuốn bạt về đâu.
Quan san ngàn dặm vương thương nhớ,
Hồ Hán từ nay cách biệt nhau.
Khi
sang đến đất Hồ, Chiêu Quân yêu cầu Phiên chúa xây một chiếc cầu trên
sông Hắc Thủy để tạ ơn Trời Ðất. Lên cầu, nhìn cánh nhạn bay, nhìn dòng
sông Hắc Thủy, nàng xót xa đau đớn, ngao ngán thở dài:
Thủy hà sóng lạnh gió đìu hiu,
Cánh nhạn lê thê giải nắng chiều.
Thấp thoáng mây về nơi lữ thứ,
Mơ màng một giấc mộng cô liêu.
Ngâm
thơ xong, nàng lao mình xuống sông Hắc Thủy! Cái chết trinh liệt của
nàng khiến cho mọi người, kể cả Phiên chúa, ngậm ngùi thương tiếc và cảm
phục. Văn thơ đời Hán và đời sau có nhiều bài nói về cuộc đời và sự hy
sinh thanh cao của Chiêu Quân. Ðến đời nhà Tấn (265 – 419), vua Tấn Tư
Mã Chiêu đổi tên Chiêu Quân thành Minh Phi. Thạch Sùng sáng tác khúc ca
Vương Minh Quân. Có khúc cổ nhạc gọi là “Chiêu Quân oán”, “Chiêu Quân
cống Hồ”. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, lúc Kiều đánh đàn cho Kim
Trọng nghe, có câu: Quá quan này khúc Chiêu Quân, Nửa phần luyến chúa,
nửa phần tư gia. Trong “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Ðình Chiểu có câu:
Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ, Bởi người Diên Thọ họa đồ gây nên! Tỉnh Tuy
Viễn ở Trung quốc, bắc giáp Mông cổ, cách 10 cây số về phía Nam hãy còn
mộ của Vương Chiêu Quân. Nơi đây có 3 tòa cổ miếu xây bằng đá: mộ của
Chiêu Quân ở ngôi miếu giữa, hai bên là mộ của hai nữ tỳ đã cùng tự tử
với nàng. Trên mộ bia có khắc mấy dòng chữ đã mờ vì thời gian “Vương
Chiêu Quân chi mộ” Tương truyền cỏ ở chung quanh vùng này đều màu trắng,
chỉ có cỏ mọc trên mộ Chiêu Quân màu đỏ, là giống cỏ ở Trung quốc mới
có. Phải chăng đó là hồn thiêng của đất nước của người kỳ nữ đã hun đúc
chuyện lạ để tiếng muôn đời?
4 – Dương Quí PhiTên
là Dương Ngọc Hoàng, nguyên là vợ của Thọ Vương Mạo . Thọ Vương Mạo là
con của vua Ðường Huyền Tông (tên thật là Lý Long Cơ, còn gọi là Ðường
Minh Hoàng. Triều Ðường: 618 – 907), nhưng vì quá say mê sắc đẹp của
Dương Quý Phi nên Ðường Huyền Tông chiếm đoạt và phong làm Quý Phi, gọi
là Dương Quý Phi.
Dương Quý Phi vừa đẹp, vừa thông minh nên vua
Ðường đắm đuối yêu thương, bỏ mặc việc triều chính cho gian thần Lý Lâm
Phủ trông coi. Lúc bấy giờ An Lộc Sơn, người Hồ, là tướng dũng mãnh,
được nhà vua trọng dụng. Nhất là đối với Dương Quý Phi, nhờ khéo léo
nịnh nọt nên họ An rất được yêu thương. An Lộc Sơn xin làm “con nuôi”
của Dương Quý Phi để tiện ra vào làm chuyện gian dâm với Dương Quý Phi!
Năm
755, An Lộc Sơn cử đại binh làm phản, đem 150,000 binh lính Khiết Ðan
từ Phạm Dương kéo về chiếm Hà Bắc, Hà Nam, công hãm thành Lạc Dương, tự
xưng là Yên Ðế rồi tấn công thẳng vào kinh đô Trường An. Binh triều đại
bại, vua cùng một số quần thần phải bỏ kinh thành chạy vào Ba Thục.
Ðến
Mã Ngôi, tướng sĩ không chịu chạy nữa, đồng lòng giết chết gian thần
Dương Quốc Trung (anh họ của Dương Quý Phi) và bức bách vua Ðường phải
thắt cổ Dương Quý Phi thì họ mới chịu phò vua. Lương thực hết, quân sĩ
bất mãn, gặp bước đường cùng, vua Ðường đành dấu mặt, đứt ruột mà hy
sinh “người đẹp khuynh nước, khuynh thành.” Mối tình vương giả này sẽ bị
chìm vào quên lãng nếu không có ngòi bút tài hoa của Bạch Cư Dị tô điểm
cho thêm phần lâm ly bi đát.
Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, quê ở Thái
Nguyên, Sơn Tây, đậu Tiến sĩ năm 27 tuổi, nhậm chức Hàn lâm học sĩ.
Chứng kiến cảnh thảm khốc của một bi tình lụy của Ðường Minh Hoàng, họ
Bạch cảm xúc làm bài “Trường hận ca” nổi tiếng, được dịch qua tiếng Pháp
bởi Georges Soulié de Morant và tiếng Việt bởi Yã Hạc và Trinh Nghiên.
Vì bài “Trường hận ca” dài quá nên chỉ liệt kê 4 câu cuối như sau:
(Tại thiên nguyện tác tị dực điểu,
Tại địa nguyện vi tiên lý chị
Thiên trường địa cửu hữu thời tận,
Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ)
Trên trời nguyện hóa chim liền cánh,
Dưới đất làm cây nhánh dính liền.
Trời Ðất lâu bền rồi sẽ tận,
Hận này muôn thuở vẫn miên miên…
Tập
“Tây Bắc thảm kỳ” của Ðào Ngọc Sơn đời nhà Minh (1368 – 1628) có chép
truyện “Quái nham Quý Phi toàn dục bích họa”, nghĩa là bức họa trên vách
tả cảnh Dương Quý Phi tắm suối ở Quái Nham.
Quái Nham là một hòn
núi hiểm hóc ở Thiểm Tây, không có dấu chân người Ðường Minh Hoàng đã hạ
chỉ bắt xây dựng cầu mây để đưa Dương Quý Phi vào đó vui chơi, tốn kém
không biết bao nhiêu là tiền của, chưa kể nhiều người chết do làm cầu.
Cửa hang nơi Dương Quý Phi vào tắm thì càng vào trong càng rộng. Tới mãi
trong cùng thì có một bãi đất lộ thiên rộng tới vài chục mẫu, cỏ mọc
xanh rờn như một tấm nệm trải phẳng phiu. Có nhiều thứ cây lạ. Chung
quanh bãi ấy, thân núi dựng đứng như bức tường dài. Vách núi nhiều chỗ
lại phẳng trơn như mài, bóng loáng rất đẹp. Dưới những vách đá là một
con suối chảy lượn theo triền núi. Cách khoảng có những giọt nước từ
trên khe đá tí tách rơi xuống hay những tia nước từ trong các mạch đất
cuồn cuộn tuông ra, hợp với tiếng nước suối chảy tạo nên những tiếng
nhạc êm tai. Dòng suối lại có những khúc rất sâu, nước trong vắt thấy
tới đáy! Thật là một cảnh thần tiên.
Ngày nay, di tích Dương Quý Phi
vẫn còn. Trên vách đá phía Ðông thấy có hàng chữ “Dương Quý Phi toàn
dục diễm tích” (dấu vết xinh đẹp khi Dương Quý Phi tắm suối). Các nét vẽ
đều chạm khắc sâu vào thân vách nên dù có hơi phai nhạt màu nhưng trông
như mới. Tất cả chừng 10 bức vẽ: lúc Dương Quý Phi cổi áo, lúc nàng
nghịch nước, lúc lội suối với ngấn nước trong veo dần dần mờ in trên
thân hình tha thướt, uyển chuyển, da trắng như tuyết, …. Dưới các bức vẽ
có đề ngày 25 tháng 5 năm Thiên Bảo thứ 10 (tức năm 752). Cuốn “Dị Văn
Lục” chép khúc vũ Nghê Thường là do Ðường Minh Hoàng lên chơi cung trăng
mà ra. Lúc ấy, trăng sáng Ðường Minh Hoàng mơ được lên chơi cung trăng.
Ðạo sĩ La Công Viễn dùng phép tiên biến giải lụa trắng thành chiếc cầu
đưa Ðường Minh Hoàng lên nguyệt điện. Trong điện có tiếng nhạc du dương,
các nàng tiên xiêm y lộng lẫy, mùi nước hoa quyến rũ đâu đây, uyển
chuyển múa hát như đàn bướm muôn màu tha thướt bay lượn bên hoa. Ðường
Minh Hoàng càng nhìn càng say mê, quên cả trời gần sáng, nếu không có La
Công Viễn nhắc thì đã …quên trở về hạ giới. Khi trở về, Ðường Minh
Hoàng nhớ lại và ghi thành khúc “Nghê thường vũ y” để rồi cứ đến rằm
tháng Tám, Ðường Minh Hoàng cùng Dương Quý Phi uống rượu dưới trăng,
ngắm đoàn cung nữ múa khúc Nghê Thường mà tưởng chừng như đang ở Nguyệt
điện.
Tài liệu trên có tính cách thần thoại. Còn cuốn “Ðường Thư” ghi có phần thực tế hơn như sau:
Ðường
Minh Hoàng mơ lên chơi Nguyệt điện, thấy các tiên nữ mặc áo cánh chim,
xiêm y ngũ sắc, hát bài “Tây thiên điệu khúc”; đến khi trở về hạ giới
thì còn nhớ mang máng. Nhằm lúc đó, có Tiết độ sứ là Trương Kính Thuật
từ Tây Lương (Cam Túc ngày nay), đem khúc hát Bà La Môn đến hiến nên
Ðường Minh Hoàng truyền đem san định lại và đổi tên là khúc “Nghê thường
vũ y”. (Nghê: cầu vồng. Thường: xiêm ỵ Nghê thường nghĩa là xiêm y may
bằng vải năm màu của cầu vồng. Vũ y: áo dệt bằng lông chim). Ðúng ra,
căn cứ vào các tài liệu sử học và khoa khảo cổ, người ta cho rằng khúc
“Nghê thường vũ y” là một vũ khúc Ấn Ðộ truyền sang Trung quốc qua “con
đường tơ lụa” (route de la soie), khi đến Trung quốc thì được cải biến
cho hoàn chỉnh hơn.
Trong “Cung Oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều có câu:
Dẫu mà tay múa, miệng xang,
Thiên tiên cũng ngảnh Nghê thường trông trăng
Trong “Bích câu kỳ ngộ” có câu:
Ðong đưa khoe thắm, đưa vàng,
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha
5 – Trác Văn QuânVợ của Tư Mã Tương Như thời Hán. Có thơ số tiêu biểu như sau :
Nhất biệt chi hậu, nhị địa tương huyền,
Chỉ thuyết thị tam tứ nguyệt, hựu thùy tri ngũ lục niên,
Thất huyền cầm vô tâm đàn, bát hành thư vô khả truyền,
Cửu liên hoàn tòng trung chiết đoạn,
Thập lý trường đình vọng nhãn dục xuyên,
Bách tư tưởng, thiên hệ niệm, vạn ban vô nại bả quân oán.
Vạn ngữ thiên ngôn thuyết bất hoàn,
Bách vô liêu lại thập y lan,
Trùng cửu đăng cao khán cô nhạn,
Bát nguyệt trung thu nguyệt viên nhân bất viên,
Thất nguyệt bán thiêu hương bỉnh chúc vấn thương thiên,
Lục nguyệt phục thiên nhân nhân dao phiến ngã tâm hàn.
Ngũ nguyệt thạch lưu như hoả thiên ngộ trận trận lãnh vũ kiêu hoa đoan,
Tứ nguyệt tì bà vị hoàng ngã dục đối cảnh tâm ý loạn.
Hốt thông thông, tam nguyệt đào hoa tùy thủy chuyển.
Phiêu linh linh, nhị nguyệt phong tranh tuyến nhi đoạn,
Ai ! Lang a lang, ba bất đắc hạ thế nhĩ vi nữ lai ngã vi nam.
Họ
Trác vốn có một người con gái rất đẹp tên Văn Quân, còn nhỏ tuổi mà sớm
góa chồng, lại thích nghe đàn. Tương Như được biết, định ghẹo nàng, nên
vừa gảy đàn vừa hát khúc “Phượng cầu hoàng” (Chim phượng trống tìm chim
phượng mái).
Chim phượng, chim phượng về cố hương,
Ngao du bốn bể tìm chim hoàng
Thời chưa gặp chừ, luống lỡ làng.
Hôm nay bước đến chốn thênh thang.
Có cô gái đẹp ở đài trang,
Nhà gần người xa não tâm tràng.
Ước gì giao kết đôi uyên ương,
Bay liệng cùng nhau thỏa mọi đường.
Nguyên văn:
Phượng hề, phượng hề quy cố hương,
Ngao du tứ hải cầu kỳ hoàng,
Thời vị ngộ hề vô sở tương,
Hà ngộ kim tịch đăng tư đường.
Hữu diệm thục nữ tại khuê phường,
Thất nhĩ nhân hà sầu ngã trường.
Hà duyên giao cảnh vi uyên ương
Tương hiệt cương hề cộng cao tường.
Trác Văn Quân nghe được tiếng đàn, lấy làm say mê, đương đêm bỏ nhà đi theo chàng. Trác ông tức giận, quyết định từ con.
Đôi trai gái đó mở một quán nấu rượu. Vợ chồng cùng cặm cụi làm ăn.
6 – Ban ChiêuBan
Chiêu (đời Đông Hán – 25~196) tự là Huệ Cơ, sinh ra trong một gia đình
Nho giáo. Là con gái của Ban Bưu và là em gái của Ban Cố, Ban Siêu. Cha
anh nàng có học thức cao nên bản thân nàng cũng không hề thua kém.
Năm
nàng được 13 tuổi đã giỏi thi phú. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, nàng đã
sánh duyên cùng Tào Thế Thức – cũng là một nhà nho lỗi lạc. Duyên vợ
chồng giữa nàng và Thế Thức chỉ được 10 năm thì Thế Thức chết, nàng thủ
tiết thờ chồng (nếu tính theo lệ 18 tuổi lấy chồng thì lúc này nàng chỉ
khoảng 28 tuổi).
Nàng được vua mời vào cung làm thầy dạy học cho các hoàng tử, cung phi. Được nhiều người kính trọng.
Ban
Bưu lúc này đang làm quan tại triều, được vua cử soạn bộ Hán Thư nhưng
chưa làm xong thì đã chết. Anh nàng được lệnh kế tục công việc. Tuy
nhiên, chẳng được bao lâu sau thì bị cầm tù và chết (do có mối quan hệ
với gia đình Chương Đức hoàng hậu). Thấy cha và anh dở dang công việc
nên nàng đã tâu vua cho mình được tiếp tục việc hoàn chỉnh bộ Hán Thư.
Vua Hoà Đế bằng lòng. Nàng được vào Đông Quan tàng thư để tiếp tục công
việc biên soạn bộ Hán Thư. Trong thời gian này, Ban Chiêu còn sáng tác
tập “Nữ giới” gồm có 7 thiên. Danh tiếng của nàng càng lẫy lừng.
7 – Thái DiễmThái
Diễm cũng gọi là Thái Văn Cơ, một nữ sĩ tài hoa đời Tam Quốc (220-264).
Cha nàng là Thái Ung, có tài thẩm âm vào bực nhứt cổ kim. Tương truyền,
thấy một người chụm củi, ông bảo: “Tôi nghe tiếng củi đó nổ, biết là
củi tốt, sao đem chụm cho uổng”. Ông xin khúc củi về, làm một cây đàn,
tiếng rất trong.
Nàng Thái Diễm lên 8 đã giỏi đàn. Có chồng là Vệ Đạo
Giới nhưng lại góa chồng sớm, không con. Đương lúc Đổng Trác nổi loạn,
nàng bị rợ phương bắc bắt về đất Phiên, phải sống tủi nhục ở đất Hung
Nô. Nàng nhớ quê hương, mới làm ra 18 khúc kèn rợ Hồ. Những bản nhạc này
truyền vào Trung Nguyên. Tào Tháo là chúa nước Ngụy, trước vốn là bạn
thân của cha nàng, nay lại thưởng thức bản nhạc, động lòng thương xót,
mới sai người đem ngàn lượng vàng lên phương bắc chuộc nàng về.
Vua
đất Hồ là Tả Hiền vương vốn sợ uy thế của Tào Tháo phải cho người đưa
nàng về Hán. Tháo lại đứng làm chủ gả nàng cho Đổng Kỷ.
Khi về nước,
nàng Thái Diễm có làm bài “Bi phẫn thi” dài 540 chữ, tả nỗi long đong
của nàng, lời cực kỳ thống thiết, mỗi chữ như một giọt lệ.
Dục tử bất năng đắc,
Dục sinh vô nhứt khả.
Bỉ sương giả ha cô?
Nãi lao thử ách họa!
Nghĩa:
Muốn chết mà không được,
Muốn sống thêm vất vả.
Hỡi trời xanh tội gì?
Bắt ta gặp tai họa!
Hồ phong xuân hạ khởi,
Phiên phiên suy ngã y,
Túc túc nhập ngã nhĩ.
Cảm thời niệm phụ mẫu,
Ai thán vô cùng dĩ!
Nghĩa:
Xuân hạ, gió Hồ nổi,
Phất phất tà áo ta.
Ào ào bên tai thổi,
Cảm xúc sinh nhớ nhà,
Cùng khổ thay nông nỗi.
(Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê)
Một
hôm, Tào Tháo đem quân đánh Lưu Bị, tiện đường ghé thăm. Đổng Kỷ làm
quan xa chỉ có nàng ở nhà. Nghe tin Tháo đến, nàng vội ra rước vào. Tháo
ngồi trên sập, nàng thi lễ xong chắp tay đứng hầu bên. Tháo nhìn lên
vách, chợt thấy một tấm bìa treo, có ghi bài văn bia, bèn đứng dậy bước
đến xem và hỏi nguồn gốc. Thái Diễm thưa:
- Đây là bài văn bia đề một
nàng Tào Nga. Xưa đời Hòa Đế, ở vùng Thượng Ngu có một người đồng bóng
tên Tào Vu, hay lên đồng nhảy múa. Một hôm vào ngày mồng 5 tháng 5, Vu
say rượu, đứng múa may trên thuyền, sẩy chân té xuống sông chết. Cô con
gái của Vu vừa lên 14 tuổi, quá thương cha, cứ đi dọc bờ sông kêu khóc
suốt 7 ngày đêm, rồi nhảy xuống nước mất tích. Qua 5 ngày sau, bỗng thấy
nàng đội xác cha nổi lên mặt sông. Người trong làng vớt xác cả hai chôn
cất. Quan huyện Thượng Ngu là Đỗ Thượng tâu việc ấy về triều. Triều
đình khen nàng Tào Nga là gái hiếu, truyền cho lập bia. Đỗ Thượng lại
sai Hàn Đan Thuần làm bài văn khắc vào bia để ghi lại việc ấy. Hàn Đan
Thuần bấy giờ mới 13 tuổi, cầm bút viếc ngay một hơi thành bài văn,
chẳng phải sửa chữa một chữ. Đỗ Thượng chịu là hay, cho khắc vào bia
dựng bên mộ nàng Tào Nga. Thời bấy giờ, ai đọc cũng lấy làm lạ. Tiếng
văn hay đồn dậy xa gần… Phụ thân thiếp nghe tiếng cũng tìm đến xem, gặp
lúc trời tối, không nhìn thấy chữ, phải sờ vào bia, lần từ nét mà đọc.
Đọc xong, người lấy bút viết 8 chữ lớn vào sau lưng bia. Về sau, có
người khắc cả 8 chữ vào đấy.
Tào Tháo thấy 8 chữ ấy cũng ghi trên bức bia, bên cạnh bài văn như sau: “Hoàng quyến, ấu phụ, ngoại tôn, tê cửu”.
Tháo hỏi Diễm:
- Nhà ngươi có hiểu ý nghĩa 8 chữ này không?
Nàng thưa:
- Tuy là di bút của cha, nhưng thú thật thiếp cũng không hiểu ý nghĩa ra sao.
Tháo quay lại hỏi các mưu sĩ, mọi người đều chịu không biết. Bấy giờ có quan Chủ bạ là Dương Tu lên tiếng:
- Tôi hiểu ra rồi.
Tu giải:
-
Tám chữ đó là ẩn ngữ của Thái Ung. “Hoàng quyến” là lụa màu vàng, tức
là màu sắc của tơ (ti sắc), chữ “ti” với chữ “sắc” hợp lại thành chữ
“tuyệt”. “Ấu phụ” nghĩa là con gái còn nhỏ, tức là “thiếu nữ”. Chữ
“thiếu” đứng bên chữ “nữ” hợp thành chữ “diệu”. “Ngoại tôn” là cháu
ngoại. Cháu ngoại tức là đứa con của con gái mình (nữ nhi tử). Chữ “nữ”
chắp với chữ “tử” thành chữ “hảo”. “Tê cửu” là cái cối giã hành tỏi. Cái
cối là vật chịu cay (thụ tân). Chữ “thụ” đặt bên chữ “tân” thành chữ
“từ”. Tóm lại, đó là ẩn chữ “Tuyệt diệu hảo từ”, tức Thái Ung đã hết lời
khen tặng văn chương của Hàn Đan Thuần vậy.
Mọi người đều khen Dương Tu tài thức mẫn tiệp.
8 – Tạ Đạo Uẩn Cháu gái Tạ An, người xuất hiện trong điển “Vịnh Nhứ Tài”. Tác phẩm tiêu biểu : “Đăng Sơn”
Nga nga đông nhạc cao,
Tú cực xung thanh thiên.
Nham trung gian hư vũ,
Tịch mịch u dĩ huyền.
Phi công phục khí tượng,
Vân cấu thành tự nhiên.
Khí tượng nhĩ hà nhiên ?
Toại lệnh ngã lâu thiên.
Thệ tướng trạch tư vũ,
Khả dĩ tận thiên niên.
Tạ Đạo Uẩn, con nhà thế phiệt đời nhà Tấn (265-419).
Tạ
Đạo Uẩn lúc nhỏ đã thông minh, học rộng lại có tài biện luận. Nhân một
hôm về mùa đông, tuyết rơi lả tả, chú của Tạ Đạo Uẩn là Tạ An ngồi uống
rượu nóng có cả hai cháu là Tạ Lãng và Đạo Uẩn ngồi hầu bên. Tạ An liền
chỉ tuyết, hỏi:
- Tuyết rơi giống cái gì nhỉ?
Tạ Lãng đáp:
- Muối trắng ném giữa trời.
Tạ Đạo Uẩn bảo:
- Thế mà chưa bằng “Gió thổi tung tơ liễu”.
Tạ An khen Tạ Đạo Uẩn là thông minh, nhiều ý hay, tư tưởng đẹp. Ông lại thường chỉ Đạo Uẩn mà bảo các con cháu rằng:
- Nếu là trai, Tạ Đạo Uẩn sẽ là bực công khanh.
Tạ Đạo Uẩn sau kết duyên vớI Vương Ngưng Chi, một nhà nho lỗi lạc đương thời.
Làm
vợ họ Vương, Tạ Đạo Uẩn thường thay chồng tiếp khách văn chương, đàm
luận thi phú. Nàng tỏ ra là người hoạt bát, thông suốt nhiều vấn đề, lập
luận vững chắc làm nhiều tay danh sĩ đương thời phải phục.
Em chồng
của Tạ Đạo Uẩn là Vương Thiếu Chi. Người học giỏi nhưng lập luận kém
cỏi, thiếu hoạt bát nên trong khi biện luận thường bị khách áp đảo. Tạ
Đạo Uẩn sợ em chồng mất giá trị nên bảo thị tỳ thưa với Thiếu Chi làm
một cái màn che lại, nàng sẽ ngồi sau để nhắc Thiếu Chi trong khi biện
luận với khách.
Thiếu Chi nhờ đó mà khuất phục được khách và nổi danh, được nhiều người kính phục.
Nàng
Ban, ả Tạ là hai người phụ nữ có tài danh về thi phú văn chương. Về
sau, các nhà văn học thường dùng tiếng “nàng Ban, ả Tạ” để chỉ người phụ
nữ tài giỏi, có danh tiếng về văn chương thi phú.
9 – Võ Tắc Thiên Võ
Tắc Thiên (武則天) (625 – 16/12/705), tên riêng Võ Chiếu (武曌), là nữ hoàng
duy nhất trong lịch sử Trung Quốc đã lập ra triều đại của riêng mình,
nhà Võ Chu (周), và cai trị dưới cái tên Thánh Thần Hoàng Đế ((聖神皇帝) từ
690 đến 705. Việc bà nổi lên nắm quyền cai trị bị các nhà sử học Khổng
giáo chỉ trích mạnh mẽ nhưng các nhà sử học từ sau thập kỷ 1950 đã có
cái nhìn khác về bà.
Gia đình bà có nguồn gốc ở huyện Văn Thuỷ (文水),
thuộc quận Tinh Châu (幷州) (hiện nay là thành phố Thái Nguyên tỉnh Sơn
Tây). Văn Thủy hiện là một huyện thuộc Lữ Lương Địa Khu (吕梁地區) nằm cách
Thái Nguyên 80km về phía tây nam. Cha bà là Võ Sĩ Hoạch (武士彠) (577-635),
một thành viên thuộc một gia đình quý tộc danh tiếng ở Sơn Tây, và là
một thành viên liên minh của Lý Uyên, người sáng lập ra nhà Đường, khi
ông tiến hành chiến tranh giành quyền Lực (chính Lý Uyên cũng thuộc một
gia đình quý tộc nổi tiếng ở Sơn Tây). Mẹ bà là Dương Thị (楊氏)
(579-670), một phụ nữ thuộc gia đình quý tộc hoàng gia nhà Tuỳ. Võ Tắc
Thiên không phải sinh ở Văn Thuỷ, bởi cha bà đảm nhận nhiều chức trách ở
nhiều nơi trong suốt cuộc đời. Bà được cho là sinh ở Lợi Châu (利州) hiện
là thành phố Quảng Nguyên (廣元市), phía bắc tỉnh Tứ Xuyên, cách Văn Thủy
khoảng 800km về phía tây nam, nhưng một số nơi khác cũng được cho là nơi
sinh của bà gồm cả thủ đô Trường An.
Bà được đưa vào hậu cung vua
Thái Tông nhà Đường vào khoảng năm 638 (một thời điểm khác có thể là:
636) và là một Tài Nhân (才人), tức là một trong chín người thiếp cấp thứ
năm. Vua Thái Tông đặt tên cho bà là Mị (媚), có nghĩa là “duyên dáng,
xinh đẹp”, và vị nữ hoàng trẻ thường được người Trung Quốc gọi là Võ Mị
Nương. (武媚娘).
Năm 649, Thái Tông chết, và theo thói thường đối với
những người thiếp, Võ Mị Nương phải rời cung đình và để vào chùa Phật
giáo, nơi bà sẽ phải xuống tóc. Không lâu sau, có lẽ là vào năm 651, bà
lại được vua Cao Tông, con của Thái Tông, đưa trở lại hoàng cung bởi vì
ông đã sửng sốt trước sắc đẹp của bà khi đi cúng tế cho cha. Vợ vua Cao
Tông, người họ Vương (王), đóng vai trò quan trọng trong việc đưa Võ Mị
Nương hòa nhập lại vào cung đình. Nhà vua lúc ấy đang rất sủng ái một
người thiếp họ Tiêu (蕭) và hoàng hậu hy vọng rằng khi có một người thiếp
đẹp mới nhà vua sẽ thôi chú ý tới người thiếp kia. Các nhà sử học hiện
nay đang tranh cãi về câu chuyện lịch sử này, và một số nghĩ rằng Võ Tắc
Thiên trên thực tế chưa hề rời khỏi hoàng cung, và rằng có thể bà đã có
tình ái với vị thế tử (người sau này là vua Cao Tông) từ trước, khi vua
Thái Tông còn đang sống. Dù sự thực thế nào chăng nữa, vẫn chắc chắn
rằng tới đầu những năm 650 Võ Tắc Thiên đã là thiếp của vua Cao Tông và
bà được gọi là Chiêu Nghi (昭儀), mức cao nhất trong chín cấp bậc của
những người thiếp thuộc hàng thứ hai. Việc vị hoàng đế lấy một trong
những người thiếp của cha mình, và lại từng là một bà sư như các nhà sử
học truyền thống tin tưởng là một cú sốc đối với những nhà đạo đức Khổng
giáo.
Võ Tắc Thiên nhanh chóng bộc lộ tài năng của mình trong việc
vận động và lập mưu mẹo. Đầu tiên bà tống người thiếp họ Tiêu khỏi ngáng
đường, mục tiêu tiếp sau chính là hoàng hậu. Năm 654, con gái của Võ
Tắc Thiên bị giết. Hoàng hậu họ Vương bị nghi ngờ là ở gần phòng của đứa
trẻ. Bà bị nghi là đã giết nó vì ghen tuông và sau đó bị hành hình.
Truyền thuyết kể rằng Võ Tắc Thiên đã giết chính con của mình, nhưng có
lẽ điều này là do các đối thủ của bà và các nhà sử học Khổng giáo bịa
ra. Ngay sau đó, bà được hoàng đế phong làm Thần Phi (宸妃), ở thứ bậc cao
hơn bốn người thiếp cao nhất và chỉ kém hoàng hậu. Cuối cùng, tháng
Mười Một năm 655, hoàng hậu họ Vương bị giáng phong và Võ Tắc Thiên được
đưa lên làm hoàng hậu. Sau đó Võ hậu giết Vương hậu cùng người thiếp họ
Tiêu một cách tàn bạo – họ bị đập nát chân tay và sau đó tống vào những
thùng rượu to để họ còn sống khổ cực thêm ít ngày nữa.
Sau khi Cao
Tông bắt đầu bị giảm sút sức khỏe vì đột quỵ, từ tháng 11, 660, bà bắt
đầu cai trị Trung Quốc từ phía sau. Thậm chí sau này bà còn có được
quyền lực tuyệt đối khi hành quyết Thượng Quan Nghi (上官儀) và Lý Trung
(李忠) vào tháng 1 năm 665, và từ đó bà ngồi sau vị hoàng đế lúc ấy đã câm
lặng để coi chầu (có lẽ bà ngồi sau một bức màn phía sau ngai vàng) và
đưa ra các quyết định. Bà cai trị dưới tên chồng và sau khi ông chết thì
dưới tên của các vị vua bù nhìn tiếp theo (con bà Hoàng đế Trung Tông
và sau đó là đứa con khác Hoàng đế Duệ Tông), chỉ thực sự chiếm hẳn
quyền lực vào tháng 10 năm 690, khi bà tuyên bố lập ra nhà Chu, lấy tên
theo tên thái ấp của Cha bà và muốn sánh ngang với triều đại rực rỡ nhà
Chu trước đó thời cổ Trung Quốc mà bà coi gia đình họ Võ có nguồn gốc từ
đó. Tháng 12 năm 689, mười tháng trước khi bà chính thức lên ngôi, bà
bắt triều đình đưa ra chữ mới Chiếu (曌), cùng với 11 chữ khác để trưng
ra quyền lực tuyệt đối của bà và chọn chữ mới này làm tên thánh của
mình, sau đó nó thành chữ húy khi bà lên ngôi mười tháng sau. Chữ này
được tạo ra từ hai chữ có từ trước là chữ “minh” 明 ở bên trên có nghĩa
là “ánh sáng” hay “sự sáng suốt”; chữ “không” 空 ở dưới có nghĩa là “bầu
trời”. Ý nghĩa của nó ám chỉ rằng bà giống như ánh sáng chiếu xuống từ
bầu trời. Thậm chí cách đánh vần của chữ mới này cũng giống hệt như chữ
“chiếu” trong tiếng Trung Quốc. Khi lên ngôi, bà tuyên bố mình là Hoàng
đế Thánh Thần, người phụ nữ đầu tiên nắm chức “hoàng đế” (皇帝) vốn đã
được phát minh ra từ 900 năm trước bởi hoàng đế đầu tiên là Tần Thủy
Hoàng. Thêm nữa, bà là người phụ nữ duy nhất trong lịch sử 2100 năm của
triều đình Trung Quốc được ngồi lên ngôi rồng, và điều này một lần nữa
lại gây sốc cho những nhà nho đạo Khổng.
Lý thuyết chính trị Trung
Quốc truyền thống không cho phép một phụ nữ được lên ngôi, Vũ hậu quyết
định dẹp yên chống đối và đưa các quan lại trung thành vào triều. Thời
cai trị của bà để dấu ấn về sự xảo quyệt tài tình và chuyên quyền hung
bạo. Dưới thời cai trị, bà lập ra Cảnh sát mật để đối phó với bất kỳ
chống đối nào có thể nổi lên. Bà được hai người sủng thần là anh em
Trương Dịch Chi 張易之, và Trương Xương Tông 張昌宗 ủng hộ. Bà lấy lòng dân
bằng cách tán thành Phật giáo nhưng trừng trị nghiêm khắc các đối thủ
bên trong gia đình hoàng gia và quý tộc. Tháng 10 năm 695, sau nhiều lần
thêm chữ, tên của bà được đổi thành Thiên Sách Kim Luân Thánh Thần
Hoàng Đế (天冊金輪聖神皇帝), một cái tên đã không bị thay đổi cho tới tận cuối
thời cai trị của bà.
Ngày 20 tháng 2 năm 705, lúc này bà đã hơn tám
mươi tuổi và ốm yếu, Võ hậu không thể ngăn chặn một cuộc đảo chính giết
hại hai anh em họ Trương. Quyền lực của bà cũng kết thúc ngày hôm đó, bà
buộc phải lùi bước, hoàng đế Trung Tông được tái lập, nhà Đường lại
tiếp tục từ ngày 3 tháng 3 năm 705. Võ hậu chết chín tháng sau đó, có lẽ
bà cũng được an ủi rằng cháu trai của mình Võ Tam Tư (武三思), con người
em họ và cũng tham vọng và hấp dẫn như bà, đã gắng sức nhằm trở thành
người chủ thực sự của triều đình, kiểm soát vị hoàng đế vừa được tái lập
thông qua hoàng hậu của ông ta, người mà ông đã có tình ý từ trước.
Mặc
dù chỉ tồn tại một thời gian ngắn, theo một số nhà sử học, nhà hậu Chu
đã có được một hệ thống bình đẳng xã hội về giới tốt hơn so với nhà
Đường tiếp sau nó.
10 – Thượng Quan Uyển Nhi Thượng
Quan Uyển Nhi là cháu gái Thượng Quan Nghi, hiệu xưng Cân Quốc Thủ
Tướng, là một trong những phụ nữ tài năng nhất của lịch sử Trung Quốc,
cũng là một trong những mỹ nữ hứng chịu nhiều điều bi thảm.
Ông của
Uyển Nhi là Thượng Quan Nghi phò Đường Cao Tông, đã thất bại trong nỗ
lực phế truất Võ Tắc Thiên và bị hành hình. Cha của Uyển Nhi cũng bị ép
phải tự vẫn. Uyển Nhi và mẹ là Trịnh phu nhân trở thành nô lệ trong cung
điện hoàng đế.
Thượng Quan Uyển Nhi xinh đẹp, thông minh mẫn tiệp lạ
thường, nàng thông thuộc thi thư, ngâm thơ, viết văn, thấu hiểu chuyện
xưa nay. Hoàng đế Võ Tắc Thiên rất ấn tượng với nàng, sau khi lên ngôi
liền phong cho Uyển Nhi một chức quan văn chuyên thảo những chỉ dụ, sắc
lệnh. Uyển Nhi đem lòng thương yêu một trong những người tình của Võ Tắc
Thiên, và khi nữ hoàng họ Võ phát hiện sự việc, bà đã trừng phạt nàng
bằng cách khắc hình bông hoa lên trán Uyển Nhi. Tuy nhiên, điều này lại
càng làm cho Uyển Nhi thêm quyến rũ hơn.
Uyển Nhi cũng bắt đầu quan
hệ tình cảm với Võ Tam Tư, cháu trai Võ Tắc Thiên – sau này trở thành
người có quyền lực và ảnh hưởng lớn. Sau khi Võ Tắc Thiên buộc phải
thoái vị vì tuổi đã cao, con trai thứ ba của bà là Đường Trung Tông trở
thành hoàng đế, khôi phục lại triều Đường, chấm dứt triều đại nhà Chu
ngắn ngủi.
Vợ của Đường Trung Tông là Vi Hậu cũng dan díu với Võ Tam
Tư. Để tránh những rắc rối, Võ Tam Tư đã quyết định tiến cử Thượng Quan
Uyển Nhi với Trung Tông.
Trung Tông đã có thời gian dài tiếp xúc với
Uyển Nhi, hiểu rõ sắc đẹp và tài năng của nàng, và rất sủng ái Uyển
Nhi, nàng trở thành một trong những ái phi của Trung Tông. Quyền lực của
Uyển Nhi ngày một lớn ở chốn hậu cung, nhưng vẫn duy trì chức quan văn
trong hoàng cung – một sự nghiệp chưa từng có với một phi tần. Thượng
Quan Uyển Nhi và Vi Hậu vẫn duy trì cuộc tình tay ba cùng Võ Tam Tư.
Trung
Tông là một người đàn ông bạc nhược, không dám đối mặt với vợ và chỉ im
lặng trước mọi lời đồn đại. Vi Hậu ngày càng khao khát được tiếp bước
Võ Tắc Thiên. Mong muốn của Vi Hậu được con gái là công chúa An Lạc và
Thượng Quan Uyển Nhi khuyến khích. Trở ngại chính của họ lúc này là Thái
tử Lý Trùng Tuấn. Cả ba người bấy giờ đều khẳng định quyết tâm loại bỏ
Trùng Tuấn, thành lập triều đại riêng dưới sự trị vì của Vi Hậu.
Công
chúa An Lạc rất được Trung Tông cưng chiều vì xinh đẹp và khéo ăn nói.
An Lạc bắt đầu dèm pha Lý Trùng Tuấn và muốn trở thành người nối ngôi
vua cha. Trung Tông lưỡng lự nhưng rồi rốt cuộc đã từ chối An Lạc vì
nghe theo lời khuyên của Tể tướng đầu triều. An Lạc sau đó bắt đầu thù
ghét cha. Lý Trùng Tuấn nhận thấy rõ tình thế nguy hiểm của mình, đã
thực hiện cuộc binh biến năm 707 với sự giúp đỡ của tể tướng và một số
đại thần.
Lí Trùng Tuấn tuyên bố nhận được mật lệnh của vua Trung
Tông rằng, Võ Tam Tư và Thượng Quan Uyển Nhi âm mưu giết vua, đem theo
300 lính ngự lâm quân tới nơi ở của Võ Tam Tư, giết chết Võ Tam Tư và
hơn 10 kẻ hầu người hạ khác. Công chúa An Lạc may mắn thoát thân vì đang
ở cung hoàng đế. Nhưng Trùng Tuấn đã tự mình dẫn theo lính tới cung
vua, tìm Vi hậu và An Lạc. Công chúa An Lạc được Trung Tông che chở an
toàn ở Cửa Huyền Vũ, khi Trùng Tuấn đến nơi thấy Trung Tông ngồi ở trên
thành cùng Thượng Quan Uyển Nhi. Uyển Nhi sợ vua nghe theo lời con bèn
nói: “Thiếp tin là đầu tiên hắn muốn bắt thiếp, sau đó là hoàng hậu và
cuối cùng là cả hoàng đế’’.
Trung Tông tin theo, bèn ra lệnh ngăn
chặn cuộc binh biến của Lý Trùng Tuấn. Một hoạn quan khá nổi tiếng về
lòng dũng cảm đã dẫn đầu đội ngự lâm quan tấn công Trùng Tuấn, giết chết
tướng chỉ huy. Lính tham gia binh biến bắt đầu nao núng. Vua Trung Tông
bấy giờ ban chỉ dụ thu phục quân lính tham gia đội binh biến. Bấy giờ,
ngự lâm mới biết không phải Trung Tông ra lệnh giết Võ Tam Tư cùng bè
đảng, bèn quay giáo giết các tướng chỉ huy. Trùng Tuấn trốn khỏi Trường
An với vài trăm người thân tín, nhưng rồi bị một kẻ dưới quyền giết chết
khi đang ngủ.
Vi Hậu bấy giờ quyết định gia tăng thanh thế của
mình, phong tước vị cho rất nhiều con cháu thân thuộc với âm mưu thay
thế triều Đường bằng một triều đại của riêng mình. Công chúa An Lạc, sau
cái chết của chồng ở vụ binh biến, đã tái hôn, và dan díu với con chồng
cùng nhiều người khác như một nhà sư, một thái y, một đầu bếp hoàng
gia…
Trung Tông bắt đầu không thể chịu nổi cuộc sống phóng đãng của
vợ và con gái, năm 710 quyết định phế truất Vi Hậu. Khi biết điều này,
Vi Hậu và công chúa An Lạc âm mưu giết vua. Thái y chuẩn bị thuốc độc,
đầu bếp trộn thuốc vào những chiếc bánh bao chế biến hấp dẫn, công chúa
tự mình dâng vua món ăn. Hoàng đế Trung Tông sau khi ăn bánh bao đã qua
đời.
Thượng Quan Uyển Nhi đã ép Trung Tông lập chiếu nhường ngôi cho
con thứ tư của một phi tần là Lý Trọng Mậu (Thiếu Đế) tuổi còn nhỏ. Vi
Hậu trở thành người nắm giữ triều chính với tư cách Hoàng Thái Hậu nhiếp
chính.
Sau này, Lý Đán lên ngôi, phế truất Lý Trọng Mậu. Vi Hậu, công chúa An Lạc và Thượng Quan Uyển Nhi bị giết chết.
Cuộc
đời của Thượng Quan Uyển Nhi, theo những sử gia Nho giáo, là ví dụ nổi
trội cho một hình mẫu phụ nữ tài năng nhưng phóng đãng. Mối quan hệ phức
tạp của Thượng Quan Nhân với Võ Tam Tư (người tình), Vi Hậu (đồng minh
và tình địch), Trung Tông (hoàng đế và chồng) có lẽ luôn bị coi là trái
luân thường đạo lý, là đầy rẫy âm mưu. Nhưng cũng cần đề cập tới một
thực tế là, mọi điều có thể sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu Vi Hậu và công chúa
An Lạc bắt đầu một triều đại mới kiểu ’’gia đình trị’’ họ Vi mà không có
sự can thiệp của nhiều thế lực khác, trong đó có Thượng Quan Uyển Nhi.
11 – Ban Tiệp DưNàng
họ Ban, không biết tên, vốn là một cung phi của vua Thành Đế nhà Hán
(32-8 trước C.N.). Nàng làm nữ quan, chức Tiệp Dư nên thường gọi nàng
Ban Tiệp Dư.
Nàng đẹp, duyên dáng, được nhà vua sủng ái.
Nhưng
sau, nhà vua say mê Triệu Phi Yến. Bị nàng này gièm pha, nàng Ban sợ
nguy cho thân nên xin vua cho hầu bà Thái Hậu ở cung Trường Tín. Từ đó,
sự sủng hạnh của vua đối với nàng ngày càng phai lần.
Tủi cho thân
phận lâm cảnh phũ phàng, nàng buồn bã, lấy một thứ lụa bát tơ trắng gọi
là Tề Hoàn (lục nước Tề) do nàng tự dệt lấy và làm thành một cây quạt
tròn. Trên quạt, nàng đề một bài thơ để tự ví thân phận mình:
Mới chế lụa Tề trắng.
Trong sạch như sương tuyết.
Đem làm quạt Hợp Hoan,
Tròn hin giống mặt nguyệt
Ra vào trong tay vua,
Lay động sinh gió mát.
Thường sợ tiết thu đến,
Gió mát cướp nồng nhiệt,
Ném cất vào xó rương,
Nửa đường ân ái tuyệt.
Nguyên văn:
Tân chế Tề Hoàn tố,
Hạo khuyết như sương tuyết.
Tài thành Hợp Hoan phiến,
Đoàn đoàn tự minh nguyệt.
Xuất nhập quân hoài tụ,
Động đạo vi phong phát
Thường khủng thu tiết chí
Lương viêm đoạt viêm nhiệt.
Khí nguyên giáp tư trung,
Ân tình trung đạo tuyệt.
Nàng
cung nữ họ Ban ấy tự ví mình như cây quạt Hợp Hoan đã từng được nhà vua
nâng niu yêu chuộng. Nhưng rồi lại ném cất vào xó rương, vì gió thu mát
đã cướp mất gió mát của quạt rồi. Thế là mối tình nửa đường đoạn tuyệt.
Nhà vua nỡ say đắm kẻ khác, nghe lời gièm pha để nàng chịu nỗi duyên
phận bẽ bàng.
Vương Xương Linh, một thi hào danh tiếng đời Đường
(617-907) cảm xúc nỗi duyên phận ghẻ lạnh của nàng cung phi họ Ban, mà
đây cũng là số kiếp chung của khách hồng nhan vô phúc sa vào cung cấm,
nên có làm 3 bài, đề là “Trường Tín thu từ” để vịnh nàng:
I
Giếng ngọc cành khô rụng lá vàng,
Buông rèm đêm đã lạnh hơi sương.
Lò hương, gối ngọc vô duyên quá,
Lắng giọt đồng rơi xiết đoạn trường.
(Bản dịch của Lam Giang)
Nguyên văn:
Kim tỉnh ngô đồng lạc diệp hoàng,
Chu liêm bất quyển dạ lai sương.
Huân lung ngọc chẩm vô nhan sắc,
Ngọa thích Nam cung xuân lậu trường.
II
Ban mai quét tước mở đền vàng,
Nâng quạt nhìn thôi luống thở than.
Mặt ngọc không bằng con quạ rét,
Nó còn sưởi nắng điện Chiêu Dương.
Nguyên văn:
Phụng chửu bình minh kim điện khai
Thả tương đoàn phiến tạm bồi hồi.
Ngọc nhan bất cập hàn nha sắc,
Do đái Chiêu Dương nhật ảnh lai.
III
Đã đành phận bạc, ôi đau đớn,
Thấy vua trong mộng, tỉnh nhớ nhung.
Tây cung rộn rực đêm yến tiệc,
Mơ màng nhớ lúc được vua ban.
Nguyên văn:
Chân thành bạc mệnh cửa tầm tư,
Mộng kiến quân vương giác hậu nghi.
Họa chiếu Tây cung tri dạ ấm,
Phân minh phức đạo phụng ân thì.
Ba bài theo điệu nhạc phủ. Tác giả tả tâm trạng u hoài của Ban Tiệp Dư: nỗi buồn đêm thu, mối buồn sáng thu lại mối sầu đêm thu.
Đêm
trước u buồn, sáng dậy bâng khuâng, đêm đến sầu não, cả ba bài đều cực
tả một nỗi buồn tha thiết. Mà nỗi buồn ấy mãi vương vấn, không bao giờ
chịu buông tha người bạc mệnh ở lãnh cung.
Trong “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, đoạn thuật lời thán oán của nàng cung phi trong cung cấm, có câu:
Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã nhạt mùi thu dung.
“Gấm nàng Ban” lấy ở điển tích trên.
12 – Chân Hoàng Hậu Sau
khi Tào Phi xưng đế, sủng hạnh Quách hoàng hậu, Quách hậu cậy đắc sủng
nên gièm pha Chân hoàng hậu, từ đó Chân hoàn hậu thất sủng. Sau khi bị
vua bỏ lơ không nói đến, từ “Đường Thượng Hành” có thể đọc thấy được
lòng tương tư cực chí của một người vợ đối với trượng phu, một lòng thâm
tình vô hối. Sự chờ đợi của Chân hoàng hậu đáng thương cuối cùng chỉ là
một tờ giấy chết của Tào Phi. Thậm chí sau khi chết, thi thể phải lấy
tóc che mặt, lấy trấu lấp miệng, chịu nỗi khổ vũ nhục và lăng ngược.
Đường Thư