“Disk Manager”DISK MANAGER (DM) là một chương trình chạy ngoài MS-DOS để xử lý ổ
cứng, như định dạng, phân vùng,… DM chia ổ đĩa cực kỳ nhanh. Đặc biệt
là nó định dạng HDD với dung lượng chính xác nhất và được coi là tối ưu
trong chuyện “xử” các gã HDD có dung lượng khổng lồ. Bạn phải dùng DM để
tạo đĩa mềm khởi động và cài đặt DM lên đĩa mềm này. Bạn chỉ được sử
dụng DM của đúng nhãn hiệu ổ cứng.
Định dạng và phân vùng HDD:
Giai
đoạn ban đầu của mỗi DM tuy có thể khác nhau, nhưng phần cơ bản cũng
tương tự nhau. Hiện nay, hầu hết các đĩa mềm DM đều tự boot và tự chạy.
Sau
những thủ tục ban đầu, bạn chọn chức năng Install HDD. Ở DM của IBM,
bạn phải chọn ngay tác vụ cần thực hiện. Nếu muốn định dạng HDD, bạn
nhấn phím số 2 để chọn tác vụ DM.
_ Menu Disk Manager Main Menu có bốn mục:
- (E)asy Disk Installation: Định dạng đơn giản.
- (A)dvanced Options: Các tùy chọn nâng cao.
- (V)iew/Print Online Manual:
Xem và in hướng dẫn sử dụng on-line.
- Exit Disk Manager: Thoát khỏi DM.
Bạn chọn mục 2 (A)dvanced Options để định dạng ổ HDD.
_ Menu
[You must be registered and logged in to see this link.] Options gồm bốn mục:
- (A)dvanced Disk Installation: Cài đặt đĩa nâng cao.
- (M)aintenance Options: Các tùy chọn bảo dưỡng.
- (U)pgrade Disk Manager: Nâng cấp DM.
Bạn chọn mục 1 (A)dvanced Disk Installation để cài đặt HDD nâng cao.
_
DM nhận diện HDD đang có trong hệ thống của bạn. Chọn Yes để xác nhận.
Khi trong máy có tới hai HDD, bạn phải cẩn thận chọn đúng HDD mình muốn
“xử”.
_ Trên màn hình chọn loại hệ điều hành, bạn chọn loại dự định sử dụng.
Có các tùy chọn:
- Windows 95, 95A, 95 OSR1 (FAT 16)
- Windows 95 OSR2, 98, 98SE, Me, 2000 (FAT 16 or 32)
- Windows NT 3.51 (or earlier)
- Windows NT 4.0 (or later) or OS/2
- DOS/Windows 3.1x (FAT 16)
- Other Operating System
Bạn nên chọn mục 2 Windows 95 OSR2, 98, 98SE, Me, 2000 (FAT 16 or 32) cho nó rộng đường “binh” sau này.
_ DM hỏi bạn có đồng ý cho nó format HDD bằng hệ thống file FAT 32 hay không? Nên chọn Yes.
_ Trên menu Select a Partition Option, bạn chọn một tùy chọn phân vùng (hay gọi là chia partition) mà mình muốn.
_ Nếu muốn để nguyên HDD làm một partition, bạn chọn OPTION (A).
Nếu để DM chia thành bốn partition bằng nhau, bạn chọn OPTION (B).
Còn trong trường hợp muốn phân các vùng có dung lượng khác nhau theo ý mình, bạn chọn OPTION (C).
Xin
lưu ý: Khi chia HDD ra càng nhiều vùng, bạn sẽ càng mất nhiều tài
nguyên cho chuyện quản lý từng vùng và tốc độ HDD sẽ bị chậm lại. Với
các HDD có dung lượng lớn, dứt khoát bạn phải chia vùng để những phần
mềm hệ thống cũ chẳng bị “sốc”, có thể nhận diện được; đồng thời khi cần
xóa phân mảnh (defragment), công cụ này chạy nhẹ hơn và nhanh hơn.
Bạn lần lượt gõ dung lượng từng vùng vào hộp Size of Partition.
Với
BestCrypt bạn có thể tạo nhiều ổ đĩa “ảo” trên một ổ đĩa “thực” và chỉ
có bạn hay những người được bạn cho phép mới sử dụng được những ổ đĩa ảo
này. Thực chất, mỗi ổ đĩa ảo là một file có tên đuôi .jbc (gọi là file
container) và nội dung cũa file chính là nội dung đã được mã hoá của ổ
đĩa ảo. Bestcrypt hoạt động như một bộ phận của hệ điều hành (tự động mã
hoá và giải mã khi đọc/ghi đĩa), bạn chỉ cần nhập đúng mật khẩu để mở
file container là bạn có thể làm việc với file này như với một ổ đĩa
“thực thụ”, thậm chí bạn còn có thể chia sẽ (share) ổ đĩa ảo trên mạng
cho mọi người “xài”.
Đặc điểm của BestCrypt
- Tương thích hoàn toàn với Windows 95/98/ME/NT/2000/XP
-
Có thể di chuyển file container qua một vật trữ tin khác như: ổ rời, ổ
quang, ổ mạng (kể cả khi máy tínhtrên mạng không cùng hệ điều hành) mà
vẫn truy xuất được bình thường.
- Tự động đóng ổ đĩa ảo nếu không sử dụng sau một thời gian quy định.
-
Cho phép người dùng chọn lựa thuật toán mã hoá trong số các thuật toán
chuẩn: Blowfish, Twofish, GOST, Rijndael. Ngoài ra BestCrypt còn cho
phép “nhúng” thêm các thành phần mã hoá của hãng thứ ba.
- Tự động lưu các thông tin về việc chia sẽ ổ đĩa ảo trong mạng để người dùng khỏi “mắc công” tái lập mỗi khi khởi động lại máy.
1/ Tạo ổ đĩa ảo:
Cho phép tạo ổ đĩa ảo có dung lượng tối thiểu 20Kb và tối đa là 512Gb (NTFS), 4Gb (FAT32), 2Gb ( FAT).
-
Chạy BestCrypt, mở menu Container/New container. Trong hộp thoại New
container, đặt tên cho file container (FileName), chỉ định ổ đĩa chứa
file container (Location), chỉ định dung lượng cho ổ đĩa ảo (Size), chọn
thuật toán mã hoá (Algorithm), chỉ định ký tự cho ổ đĩa ảo (Mount
drive). Bấm nút Creat.
- Trong hộp thoại Enter Password, nhập mật khẩu truy cập ổ đĩa ảo 2 lần (ít nhất là 8 ký tự).
- Bấm phím bất kỳ liên tục cho đến khi nút OK trong hộp thoại Seed value generation có hiệu lực, bấm OK.
- Format ổ đĩa ảo theo FAT, FAT32 hay NTFS.
2/ “Cài/Gỡ” ổ đĩa ảo
- Để sử dụng, bạn cần phải “cài” (mount) ổ
đĩa ảo vào hệ thống bằng cách chọn file container rồi chọn menu
Container/Mount (hay bấm phím phải chuột lên file để mở menu rút gọn).
Trong hộp thoại Enter Password, chỉ định ký tự ổ đĩa, nhập mật khẩu,
chọn Auto Mount để tự động cài ổ đĩa ảo mỗi khi khởi động Windows, chọn
Read only (chỉ đọc) nếu không cho phép ghi. Chú ý: Các ổ đĩa ảo mới tạo
sẽ tự động được cài vào hệ thống ngay lập tức.
- Để gỡ ổ đĩa ảo, chọn ổ đĩa đang cài rồi chọn menu Container/Dismount.
3/ Thay đổi xác lập
Đối
với những ổ đĩa ảo chưa “cài”, bạn bấm phím phải chuột vào file
container rồi chọn Properties. Trong hộp thoại Change container
properties, bạn có thể thay đổi tên và di chuyển file container, thay
đổi các mã hoá và mật khẩu, thêm hay bỏ bớt mật khẩu (khi có nhiều người
cùng sử dụng file container).
Bạn có thể tải phần mềm và đăng ký key bản quyền tại
[You must be registered and logged in to see this link.] hay tìm key trên đĩa CDROM ở các cửa hàng dịch vụ Tin học.
Giải quyết sự cố đĩa cứngNhư thường lệ, khi bật máy tính, thay vì logo Windows quen thuộc,
thì hôm nay bạn chẳng nhìn thấy gì cả. Bạn nghĩ, thế là đĩa cứng của
mình đi đứt rồi!, và bắt đầu lo lắng, phải làm gì đây?
Cũng giống như viên phi công khi đối mặt với một sự cố nghiêm trọng: dùng cuốn cẩm nang cứu hộ và cố gắng chỉnh từng thứ một.
1.
Ðừng quá lo lắng: Màn hình trống rỗng hoặc trục trặc trong quá trình
khởi động không phải lúc nào cũng do hỏng đĩa cứng. Ðĩa cứng hiện nay
thường thọ hơn các bộ phận khác của PC, cũng như việc chạy các tiện ích
hệ thống không cần thiết hoặc thay và cài đặt lại phần cứng thường.
2.
Khởi động lại: Tắt máy tính, chờ 10 giây, và bật máy lại. Ðộng tác này
sẽ điều chỉnh lại máy tính – và thông thường thì vậy là đủ để giải quyết
trục trặc này.
3. Kiểm tra bên ngoài: Nếu màn hình vẫn trống rỗng,
kiểm tra lại tất cả các dây tiếp điện, cáp nối, và các đầu nối để bảo
đảm là chúng không bị lỏng. Kiểm tra thiết bị chống đột biến điện, bảo
đảm cầu chì của nó chưa bị đứt hoặc chưa bị hư hỏng. Ðồng thời phải kiểm
tra lại các núm vặn tương phản và xem độ sáng màn hình có bị vặn xuống
mức thấp nhất không.
4. Lắng nghe tiếng động: Khi PC khởi động bạn
phải lắng nghe tiếng quạt chạy ở bộ nguồn cấp điện. Bạn cũng phải nghe
thấy tiếng quay của đĩa cứng. Nếu tất cả đều im lặng, có thể nguồn cấp
điện bị hỏng hay một chỗ nối điện bị lỏng. Hãy mở nắp hộp máy và kiểm
tra để bảo đảm tất cả các dây cáp đều được gắn chắc. Nên nhớ là phải
luôn đeo vòng chống tĩnh điện hay có các biện pháp khử tĩnh điện thân
thể trước khi chạm vào bất kỳ một bộ phận nào bên trong PC.
Nếu nghe
thấy một loạt tiếng bip trước khi hệ thống bị treo, bạn phải ghi nhớ số
tiếng bip và các tiếng đó dài hay ngắn. Thông báo lỗi bằng âm thanh này
được tạo ra từ BIOS hệ thống và cho bạn biết những thông tin về một trục
trặc đã được phát hiện. Tìm nhà sản xuất máy tính để xác định thông báo
lỗi đó có nghĩa cụ thể là gì.
5. Tìm các đầu mối: Khi khởi động PC
chạy chương trình Power-On Self Test (Kiểm tra khi mở máy) để xác nhận
sự hiện diện của các bộ phận phần cứng chủ yếu như chip nhớ, card video
và ổ đĩa.
Quan sát kỹ các thông báo lỗi xuất hiện trên màn hình.
Bạn
cũng có thể đọc thấy câu xác nhận hoặc thông báo lỗi khi hệ thống khởi
động các thiết bị cao cấp hơn như ổ CD-ROM. Tuy vậy, không phải lúc nào
cũng cần thông báo lỗi. Nếu hệ thống bị treo trong khi đang thiết lập
cấu hình cho một thiết bị ngoại vi thì có khả năng đó chính là thủ phạm.
Nếu
hệ thống của bạn khởi động Windows thì ít nhất một phần đĩa của bạn vẫn
hoạt động. Windows 95 và 98 vẫn dùng các tập tin DOS autoexec.bat và
config.sys để nạp các driver đối với một số bộ phận phần cứng cũ. Nếu PC
của bạn bị treo trong lúc nạp driver này, hãy nhấn sau khi thấy
Starting Windows 9x. Ðộng tác này cho phép bạn chạy các tập tin đó mỗi
lần một dòng để thấy rõ trục trặc xảy ra khi đang nạp thiết bị nào.
-
Nếu nhìn thấy thông báo lỗi Boot disk failure hoặc Operating system not
found thay vì thông báo Starting windows 9x, thì có nghĩa là PC không
nạp được Windows từ đĩa cứng. Có thể đĩa cứng đã bị hỏng nặng.
6.
Khởi động từ đĩa mềm. Quá trình này sẽ bỏ qua ổ đĩa cứng và dùng để xác
nhận máy tính của bạn vẫn bình thường. Dùng đĩa khởi động Windows kèm
theo máy của bạn (nếu không có đĩa khởi động này thì tốt nhất là tạo ra
một đĩa như vậy). Cách làm như sau: Ðưa đĩa vào ổ đĩa mềm, nhấn
Add/Remove Programs trong Control Panel, chọn Startup Disk và nhấn
Create Disk.
Khởi động lại hệ thống bằng đĩa khởi động trong ổ đĩa
mềm. Nếu hệ thống khởi động thành công và hiển thị dấu nhắc A:\> có
nghĩa là PC của bạn đang hoạt động tốt. Thử truy cập đĩa cứng bằng cách
gõ C: và nhấn . Nếu thấy xuất hiện dấu nhắc C:\>, thì chuyển đổi các
thư mục và thử chép một tập tin nhỏ vào đĩa mềm.
Nếu thành công, bạn
có thể ghi vào đĩa cứng, và đĩa cứng có thể vẫn còn một sức sống nào đó
(đôi khi các đĩa cứng chết từ từ). Tận dùng thời cơ để sao lưu các tập
tin quan trọng, sau đó chạy một tiện ích chẩn đoán đĩa cứng như ScanDisk
hoặc Norton Disk Doctor.
7. Kiểm tra thông số CMOS. Nếu gặp thông
báo lỗi Dirve C: not found (hoặc đại khái như vậy), có thể PC của bạn
không nhận ra đĩa cứng vì bị mất các thông số thiết lập CMOS. Ðiều này
xảy ra khi pin nuôi CMOS yếu hoặc hỏng. Ðể khắc phục, vào chương trình
setup CMOS: Trong khi PC đang khởi động, nhấn phím hoặc hoặc hoặc bất kỳ
phím nào do nhà sản xuất PC quy định (xem tài liệu kỹ thuật kèm theo
máy). Nếu không có đĩa cứng nào được liệt kê, bạn phải nhập lại thông số
cài đặt đĩa cứng này. Bạn có thể khai báo các thông số một cách thủ
công (các thông số này thường được in trên vỏ ổ đĩa cứng), nhưng hầu hết
các PC sẽ nhập lại chúng dùm bạn bằng tiện ích tự động lập cấu hình ổ
cứng của chương trình cài đặt CMOS.
Nếu đã thực hiện tất cả các bước kể trên mà ổ đĩa cứng của bạn vẫn bị trục trặc thì đã đến lúc phải hỏi các chuyên gia.
*************************
MÀN HÌNH BỊ HƯ ?Theo một số nhà “ngâm kíu” thì máy tính thuộc giống cái vì nó nói
không là có, nói có là …chưa chắc. Màn hình tối thui chưa chắc tại màn
hình hư. Theo tôi bịnh của nó có thể do một số nguyên nhân sau:
* Bạn (hay ai đó) đặt độ phân giải màn hình (hoặc tần số refresh)
quá cao ngoài tầm của cái monitor. Thí dụ monitor của bạn có độ phân
giải lớn nhất là 1024×768. Trong Windows bạn lại đặt là 1280×1024. Triệu
chứng: khi màn hình chuyển từ text mode (có độ phân giải thấp) sang
graphic mode (có độ phân giải cao) thì màn hình bị chớp, sọc, trôi, hình
ảnh chồng lên nhau… Để lâu có thể làm “đứt bóng”. Nguyên nhân này ít có
khả năng xảy ra vì nếu bạn đặt sai thông số thì màn hình sẽ tịt ngay
sau khi bạn set. 15 giây sau Windows sẽ tự động trở về như cũ trừ phi
bạn vô tình click trúng nút OK. Cách xử lý: mượn một cái monitor có độ
phân giải cao gắn vào, chỉnh độ phân giải xuống mức thấp nhất. Thay trả
lại monitor cũ và tăng dần độ phân giải lên đến khi vừa ý.
* Monitor của bạn bị “tai biến mạch máu não, liệt nửa người”. Hôm
qua còn chạy được độ phân giải cao. Hôm nay chỉ chạy được độ phân giải
thấp. Bạn có thể dùng tạm bằng cách đặt độ phân giải thấp xuống trong
khi chờ đem ra tiệm sửa. Cách làm giống như trên.
* Bạn không nói rõ “đèn hình tắt” là sao? Là cái màn hình đen
thui hay cái đèn nhỏ xíu ở cạnh cái công tắc không sáng? Nếu cái đèn nhỏ
không sáng -> không có tín hiệu từ Card màn hình qua monitor,
monitor chuyển sang chế độ standby để tiết kiệm điện. -> kiểm tra lại
Card màn hình.
* Màn hình tối thui do máy bị treo: Lại phải xét ba trường hợp:
(1) Mỗi lần khởi động máy đều bị treo sau một khoảng thời gian cố định:
(1a)Windows bị lỗi -> recover hoặc reinstall. (1b) RAM bị “thủng”,
khi truy cập đến ô nhớ hỏng đó thì bị treo: Vào CMOS chọn
Quickboot=Disable để kiểm tra RAM. Nếu máy bạn có nhiều thanh RAM thì
gắn từng thanh một để tìm xem thanh nào hư. (2) Lần đầu chạy được 60
giây thì treo, lần sau 30 giây, lần kế 10 giây… -> Máy bị treo do
nóng. Kiểm tra lại xem có cái quạt nào không quay không? Gắn thêm quạt
thử xem sao. (3) Có khi chạy 1 phút, có khi chạy 2 phút mới treo: có một
chỗ nào đó bị lỏng, tiếp xúc không tốt: vệ sinh máy, tháo rời từng bộ
phận và lắp lại.
* Đôi khi nguồn điện không đủ cũng gây ra những hiện tượng “kỳ kỳ
quái quái”. Nếu bạn đang xài qua UPS hoặc ổn áp thì hãy thử bỏ chúng ra
xem sao. Có thể UPS/ổn áp của bạn cho ra điện áp chỉ có 200V hoặc thấp
hơn. Hoặc thay luôn cái bộ nguồn mới có công suất lớn hơn. Tôi đã từng
gặp trường hợp cái máy tính mới ráp chạy hoàn toàn bình thường chỉ trừ
một việc là không in được. Mới đầu tôi nghĩ là do cổng USB bị hỏng nên
đem ra bảo hành đổi cái mainboard mới. Sau khi test tại chỗ cẩn thận đem
về nhà thì vẫn bị y như cũ. Đến khi thay bộ nguồn khác thì mới hết
bịnh.
Nói tóm lại mọi hư hỏng của máy tính đều không có nguyên nhân rõ
ràng. Không thể chẩn đoán từ xa mà cho ra kết quả chính xác được. Phải
nhìn tận mắt, sờ tận tay, nghe tận tai, ngửi tận mũi, thay cái này, thử
cái kia… mới biết hư cái gì. Chúc bạn thành công.
*******************************
Máy tính không nhận được ổ cứng SCSIMáy tính có ổ cứng SCSI và chưa cài đặt hệ điều hành, tuy
nhiên khi thử cài đặt Windows 2000/XP thì hệ thống báo không nhận được ổ
cứng. Để giải quyết sai sót này bạn làm như sau:.Ổ ứng
SCSI cần cài driver trước khi sử dụng được nó. Để cài driver cho các
thiết bị đặc biệt, bước đầu tiên trong quá trình cài đặt hệ điều hành
Windows 2000/XP là trình cài đặt sẽ quét qua máy để kiểm tra thiết bị và
cài đặt các driver cơ bản. Lúc đó tại màn hình cài đặt sẽ có dòng:
“Press F6 if you need to install a 3rd party SCSI driver”. Bạn nhấn F6
và chờ một lúc cho đến khi nhận được hộp thoại: “Press S to specify” thì
nhấn nút S theo yêu cầu.
Tiếp đó bỏ đĩa mềm chứa driver vào ổ đĩa
rồi nhấn Enter, tiếp tới lựa chọn driver thích hợp từ danh sách. Nếu bạn
chọn đúng driver thì trình cài đặt sẽ đưa ra một thông báo xác nhận rồi
quá trình cài đặt sẽ diễn ra bình thường.
**************
Bảo vệ ổ đĩa cứngTác giả:
Tạ Xuân QuanNguồn: Thanh Niên Online Có nhiều loại thiết bị lưu trữ khác nhau như đĩa mềm, CD, DVD,
thẻ nhớ hay USB flash driver… Tuy nhiên, đối với máy tính quan trọng
hàng đầu vẫn là ổ đĩa cứng HDD. Càng ngày ổ đĩa cứng có dung lượng càng
lớn và giá cả thì có xu hướng rẻ đi.
Cách đây chừng 5 năm phổ biến là các loại ổ đĩa có dung lượng từ
1,2 GB đến tối đa là 10 GB. Bây giờ ổ đĩa cứng có dung lượng 40 GB, 80
GB, thậm chí hàng trăm GB.
Tuy nhiên, cái vô giá chính là dữ liệu
chứa trong đĩa cứng. Một ngày không đẹp trời nào đó ổ đĩa bất thình lình
“đột tử” trong khi chưa kịp sao lưu dữ liệu thì thật là tai họa. Chính
vì vậy, hãy quan tâm đến sức khỏe của thiết bị lưu trữ hết sức quan
trọng này để kịp thời ứng phó.
Một chuẩn mực rất quan trọng bắt buộc
các nhà sản xuất phải tích hợp trong đĩa cứng để đem lại niềm tin cho
người tiêu dùng là S.M.A.R.T (Self-Monitoring Analysis and Reporting
Technology – Kỹ thuật tự kiểm tra, phân tích và báo cáo các trục trặc).
Khi phát hiện ra các dấu hiệu hư hỏng gần ngưỡng quy định có thể làm ổ
đĩa cứng ngừng hoạt động, tính năng này sẽ đưa ra các cảnh báo cho người
dùng. S.M.A.R.T được phát triển dựa trên kỹ thuật Predictive Failure
Analysis – PFA (phân tích sự cố dự báo trước) của hãng IBM ứng dụng cho
các Mainframe Computer (máy tính cỡ lớn dùng trong quân sự và công
nghiệp). Còn công ty đầu tiên nghiên cứu kỹ thuật này cho máy tính để
bàn là Compaq với tên gọi Drive Failure Prediction (dự báo trước các sự
cố cho ổ đĩa). Bạn nên biết hãng IBM đã thử nghiệm trên 3 triệu ổ đĩa
cứng khác nhau để có thể đưa ra các chuẩn cho S.M.A.R.T.
Nếu đã kích
hoạt tính năng S.M.A.R.T trong mainboard từ BIOS setup, nếu ổ đĩa cứng
chuẩn bị hỏng, chúng ta có thể nhận được thông báo có nội dung “HDD Bad,
Backup and Replace”.
Kỹ thuật S.M.A.R.TGồm khoảng 35 đặc
tính khác nhau, giúp dò tìm khoảng 70% lỗi trong ổ đĩa cứng. Báo cáo
cho người dùng biết thông qua màn hình BIOS hoặc thông qua một phần mềm
chẩn đoán. Mỗi hãng sản xuất đĩa tích hợp vào sản phẩm của mình những
đặc tính có thể khác nhau. Nhưng mục tiêu cuối cùng là phải dự báo trước
được những sự cố nguy hiểm có thể xảy ra, dự đoán gần chính xác thời
gian xảy ra để người dùng kịp thời sao lưu dữ liệu dự phòng. Một số đặc
tính các hãng sản xuất đĩa cứng thường tích hợp trong kỹ thuật S.M.A.R.T
là: ghi nhận nhiệt độ của đĩa cứng, khả năng quay của đĩa cứng, tỷ lệ
lỗi thô đã xảy ra, đếm số lần khởi động và tắt máy…
Các phần mềm chẩn đoán- HDD Health V 2.1: Của tác giả Aleksey S Cherkasskiy, dung lượng 879KB, tham khảo thêm và tải về từ địa chỉ
[You must be registered and logged in to see this link.].
Phần mềm này phân tích được 15 đặc tính kỹ thuật. Quan trọng nhất là
khi bạn bấm vào thẻ Health, nếu khung Known Problems ghi: “There are no
problems with this hard drive” là tương đối yên tâm. Nếu thêm khung
Overall health status cũng như khung Nearest T.E.C đều ký hiệu N/A thì
chắc chắn ổ đĩa cứng của bạn còn rất tốt, không phải lo lắng gì.
-
D-Temp: Dung lượng khá bé 144KB, miễn phí, không cần cài đặt chỉ kích
chuột là nó chạy với một biểu tượng trên khay hệ thống có ghi nhiệt độ
hiện thời của đĩa cứng. Tải về từ địa chỉ
[You must be registered and logged in to see this link.] .
-
HDD Thermometer: Giám sát nhiệt độ ổ đĩa cứng, dung lượng 213 KB là một
Free Software nhưng không hoàn toàn miễn phí, nó bắt chúng ta phải đăng
ký để sử dụng nhưng không phải trả tiền. Nếu chưa đăng ký, mỗi lần chạy
chương trình là một lần gặp Nag screen nhắc nhở phải đăng ký (Nag: mè
nheo, càu nhàu). Độ tin cậy khi giám sát nhiệt độ khá cao. Chương trình
này cũng hiển thị nhiệt độ ổ đĩa cứng trên khay hệ thống. Tác giả Georgy
Koychev, tải về từ địa chỉ
[You must be registered and logged in to see this link.] .
************************************************
Bảo vệ và khôi phục dữ liệu trên bộ nhớ Flash
Bạn gặp rắc rối vì mất dữ liệu trên thẻ nhớ USB hoặc trên card Flash
và không biết phải làm gì? Khôi phục dữ liệu từ thiết bị nhớ là có thể
và không quá phức tạp. Vậy còn chần chừ gì mà không kiếm một phần mềm có
thể giúp bạn giải quyết những rắc rối trên.
Thẻ nhớ đã trở nên nhanh hơn nhiều so với những thiết bị nhớ
ngoại vi của máy tính trong thời gian gần đây. Những thẻ nhớ 32 hay 64MB
của 4 năm trước là món hàng thú vị và khá hiếm thấy một phần vì giá của
chúng không hề rẻ. Tuy nhiên cho đến nay việc mỗi người sử dụng máy
tính có thể sở hữu nó không còn là chuyện quá xa xỉ. Chúng đã trở nên
bình thường và rất đáng tin cậy giống như đĩa mềm và đĩa CD. Thiết bị sử
dụng bộ nhớ Flash có một vài ưu điểm chính tốt hơn những chuẩn lưu trữ
lưu động khác đó là tính thông dụng lớn. Chúng còn có khả năng chứa đựng
và tốc độ truy xuất lớn hơn rất nhiều so với những đĩa mềm lỗi thời, và
còn bền hơn đĩa mềm và đĩa CD. Hiện nay trình điều khiển USB được tích
hợp trực tiếp vào hệ điều hành Windows và một số khác như Linux, MacOSX,
nên đại đa số các thiết bị Flash đều có thể sử dụng như một đĩa cứng
nhỏ lưu động, mà không vướng phải những nhược điểm của ổ cứng lưu động
truyền thống như có kích thước lớn hay mỏng mảnh dễ bị trục trặc do hệ
thống cơ học. Tuy nhiên, không có thiết bị nào là hoàn hảo, dù có tất cả
những ưu điểm kể trên tuy nhiên ổ USB và những thiết bị ghi nhớ khác
như compact flash và card SD cũng có một vài trục trặc và những khó khăn
không ngờ tới mà bạn – người dùng cần phải biết cách đề phòng và khắc
phục khi vấn đề phát sinh.
1. Bộ nhớ Flash – Có gì đặc biệt ?
Đặc
điểm đặc trưng của bộ nhớ Flash chính là tính chất “tĩnh” của nó. Các
loại bộ nhớ động truyền thống cần một nguồn cấp điện ổn định về điện thế
để lưu trữ được dữ liệu, nhưng các loại bộ nhớ flash không cần điều
này. Cũng giống như loại chip nhớ EEPROM thường được sử dụng để lưu
thông số BIOS trên bo mạch chủ, bộ nhớ flash cần điện để có thể ghi và
đọc dữ liệu nhưng vẫn tiếp tục lưu trữ dữ liệu sau khi nguồn điện bị
ngắt. Điều này làm nó trở nên vô giá đối với việc sử dụng những thiết bị
lưu động với những ràng buộc nhất định về nguồn điện. Nét đặc trưng này
có được nhờ sử dụng các transistor như là một thiết bị lưu trữ dữ liệu.
Những transistor ở bên trong bộ nhớ flash có thể được dùng để thay đổi
trạng thái (từ giá trị “1” đến giá trị “0” và ngược lại) với nguồn điện
chính, nhưng sẽ vẫn tiếp tục trạng thái đó trong khi nguồn điện bị ngắt.
Hầu hết những thiết bị bộ nhớ flash hiện nay sử dụng công nghệ NAND –
được đặt tên dựa trên trật tự sắp xếp logic của các chip nhớ. Chip Flash
NAND nhỏ gọn, bền và có khả năng thực hiện tác vụ đọc/ghi rất nhanh.
Một thiết bị nhớ sử dụng công nghệ NAND thường sẽ chứa nhiều chip nhớ,
tương tự với hình thức của các module nhớ như RAM hay trên card đồ họa,
và mạch điều khiển kết nối giữa bộ nhớ và giao diện điều khiển của nó
với những thiết bị khác. Hầu hếu các loại bộ nhớ Flash đều dùng hệ thống
tập tin FAT-32 hay FAT-16 tuỳ thuộc vào dung lượng. Card dựa vào thiết
bị flash thường sử dụng FAT-16, trong khi thẻ nhớ USB nói chung sử dụng
FAT-32. Phần lớn những máy quay kĩ thuật số và các thiết bị khác không
thể đọc được thẻ nhớ flash định dạng FAT-32. Bạn có thể sẽ ngạc nhiên
khi biết rằng FAT-16 thực chất giống với hệ thống tập tin được sử dụng
trên đĩa mềm từ ngày xưa. Do vậy chẳng có gì lạ khi các máy tính thông
thường dễ dàng đọc và ghi lên thiết bị flash. Mỗi khi ổ USB làm việc, về
cơ bản giống như một đĩa mềm với dung lượng lớn. Giống như tất cả các
thiết bị sử dụng định dạng FAT (FAT 32 là hệ thống tập tin thường được
sử dụng trên các ổ đĩa cứng), thiết bị flash nhất thiết phải bao gồm
Master Boot Record (MBR), rãnh ghi khởi động (Boot Sector – BS) và bảng
phân bố tập tin (File Allocation Table – FAT).
Bảng phân bố tập tin
chứa một danh sách những file trên thiết bị bộ nhớ flash, kích thước và
vị trí của chúng trong bộ nhớ. Mỗi lần thực hiện quy trình đọc ghi từ
thiết bị đều phải lấy thông tin và cập nhật cho bảng FAT. Tất cả những
gì gây thiệt hại cho FAT sẽ làm hư hỏng trật tự dữ liệu và đây là lý do
tại sao hai bản copy lúc nào cũng hiện hữu ở những phần khác nhau của
thiết bị nhớ.
2. Mối hiểm họa của thiết bị Flash:
Hãy nhìn một cách tổng
quan một vài điều khác nhau có thể đi tới sai lầm trầm trọng khi sử dụng
thiết bị nhớ flash và với những dữ liệu được lưu trên đó.
a. Người dùng:
Chẳng
có gì ngạc nhiên khi yếu tố thường gặp nhất gây ra việc mất dữ liệu
trên thiết bị nhớ Flash chính là con người. Bất kể em bé 3 tuổi của bạn
đang nghịch ngợm với bàn phím máy tính hay bạn đang mơ màng lúc 3h sáng
đều có thể dọn sạch nội dung của một thẻ nhớ Flash trong chớp mắt. Tuy
nhiên vấn đề này dễ khắc phục nếu phát hiện kịp thời vì nếu phần đĩa
chứa các file mới xóa chưa bị ghi đè lên thì cơ hội phục hồi bằng một
vài phần mềm chuyên dụng rất lớn.
b. Safely Remove Hardware:
Lý
do thứ hai xuất phát từ hệ điều hành tương thích USB trước đây như
Windows 2000. Hệ điều hành bắt ổ lưu động phải dừng hoàn toàn thông qua
tác vụ “Safely Remove Hardware” để sau đó không có bất kỳ dữ liệu nào
được ghi lên đó nữa thì người dùng mới được phép rút ra. Điều này nảy
sinh do thực tế khi dữ liệu được truyền tải lên một thiết bị lưu trữ di
động, Windows thường hiển thị một thanh trạng thái mức dữ liệu đã copy,
tuy nhiên không phải khi thanh này biến mất thì dữ liệu của bạn đã copy
xong. Rắc rối sẽ nảy sinh khi người sử dụng giật thiết bị lưu trữ ra
khỏi máy tính mà không sử dụng tuỳ chọn “Safely Remove Hardware”. Những
file chưa kịp đưa lên sẽ không xuất hiện trong đó hoặc bị lỗi do chưa
copy hoàn thiện.
c. Đánh rơi thiết bị:
Thứ đến sau vấn đề vô
tình, có nhiều trường hợp mất dữ liệu còn nảy sinh do chính việc người
dùng làm mất thiết bị di động. Ngay cả những công cụ tối tân và đắt tiền
nhất cũng không thể giúp gì nếu bạn đánh rơi bút lưu trữ USB của mình
trên đường đi làm. Trong trường hợp này, việc cứu dữ liệu là không thể,
bạn chỉ có thể đảm bảo rằng dữ liệu quan trọng hoặc nhạy cảm trong đó
không bị lộ ra ngoài đề phòng trường hợp bị kẻ xấu lợi dụng. Có nhiều
thiết bị lưu trữ được cài đặt sẵn chương trình mã hóa dữ liệu cho phép
người dùng tự thiết lập hệ thống bảo vệ cho riêng mình. Những tên tuổi
lớn như Corsair, Kingston, Crucial, Sandisk đều tặng kèm miễn phí tiện
ích bảo mật khi khách hàng mua sản phẩm của họ trong khi nhưng nhà sản
xuất nhỏ hơn thường bỏ qua chi tiết này.
d. Dữ liệu bị hư hại:
Hầu
hết những thiết bị lữu trữ thông tin đều sử dụng một vài chuẩn giao
diện hot-plug để kết nối với những thiêt bị điện khác nhau mà chúng hỗ
trợ. Hot-plug cho phép cắm vào hoặc rút ra trong khi đang hoạt động mà
không sợ bị hỏng hóc hay lỗi phần cứng. USB là thí dụ điển hình nhất của
công nghệ này, và cũng quen thuộc với tất cả mọi người. Vấn đề nằm ở
chỗ người dùng thường quen với việc lắp hay tháo bỏ thiết bị nhớ mà
không để ý rằng thao tác chuyển dời dữ liệu đã kết thúc hay chưa. Trên
thực tế, chẳng có cách nào để làm dữ liệu trong thiết bị lưu trữ lộn
tùng phèo lên tốt hơn việc rút nó ra khe cắm khi tác vụ đang được thực
hiện.
Không giống như hầu hết các chuẩn đĩa cứng, bộ nhớ Flash được
sử dụng phổ biến trong nhiều thiết bị khác nhau. Máy quay kĩ thuật số,
máy nghe nhạc, đầu DA , đầu DVD và hàng loạt những thiểt bị điện tử khác
đều có thể sử dụng những công cụ lưu trữ này. Tuy nhiên tính linh động
cũng đi kèm với một vài rắc rối:
- Mặc dù toàn bộ các loại bộ nhớ
Flash và thiết bị tương thích đều có nhiều đặc tính chung ví dụ như sử
dụng bảng FAT để ghi thông tin nhưng cách thực hiện và quy trình thao
tác đôi khi lại có điểm khác biệt. Nếu bạn thường xuyên di chuyển thiết
bị nhớ của mình trên nhiều loại máy đọc khác nhau, trục trặc có nhiều
khả năng sẽ phát sinh.
- Hệ thống tập tin trên Window XP của bạn rất
mạnh, được trang bị tốt để xử lý những rắc rối trong việc đọc, ghi và
xoá dữ liệu trên những thẻ nhớ nhỏ. Còn đối với chiếc máy ảnh số 3 năm
tuổi thì sao ? Câu trả lời là chưa chắc. Mặc dù nó cho phép thực hiện
những thao tác đơn giản ví dụ như ghi ảnh lên thiết bị lưu trữ, xem ảnh
hiển thị và cũng có thể xoá chúng khi cần thiết nhưng chúng có thể sẽ
không giải quyết tốt với những định dạng file không hỗ trợ hay dữ liệu
được thêm vào bằng những thiết bị khác.
e. Tuổi thọ và ăn mòn:
Như
đã đề cập ở trên, bộ nhớ flash cũng có mặt hạn chế trong việc xoá và
ghi quay vòng. Một khối bộ nhớ NAND chỉ có thể ghi và xoá một số lần hữu
hạn trước khi hoàn toàn mất khả năng cất giữ thêm dữ liệu. Đối với
những thiết bị hiện đại, con số này có thể lên tới hàng triệu lần thao
tác và tuổi thọ dài hơn được đảm bảo bằng thuật toán tích hợp sẽ buộc ổ
đĩa ghi dữ liệu đều lên các chip với số lần trung bình ngang nhau để
tránh một khoảng nhớ nào phải chịu tải quá nhiều. Đây là phương thức khá
gần gũi với công nghệ tránh Bad Sector trên đĩa cứng. Ngoài ra, mặc dù
các loại ổ đĩa USB và thẻ nhớ thông dụng có thể sử dụng liên tục vài
năm, tuy nhiên nếu bạn thường xuyên truy xuất chúng ví dụ như chạy ứng
dụng hoặc thậm chí là hệ điều hành thì tuổi thọ sẽ bị rút ngắn lại đáng
kể hoặc thậm chí là hư hỏng.
3.Phục hồi dữ liệu đã bị xoá từ Thẻ nhớ Flash:
Một trong những
lợi ích từ việc sử dụng FAT cho thiết bị nhớ Flash là làm cho chúng có
khả năng tương thích với nhiều chương trình khôi phục dữ liệu được thiết
kế để truy tìm những file tình cờ bị xoá nhầm. Phần nhiều những chương
trình này hỗ trợ FAT 32 và 16 bởi FAT 32 vẫn được chấp nhận như một
chuẩn định dạng phân vùng Windows thông thường. Nếu bạn vô ý xoá mất một
file quan trọng trong thiết bị nhớ flash thì cũng không phải quá lo
lắng. Cách tốt nhất để tìm lại dữ liệu bị mất là sử dụng một tiện ích
cho thao tác không xoá khỏi ổ cứng. Đây là một tiện ích đơn giản có thể
tìm thấy và truy lục dễ dàng những file đã bị xoá từ bất kỳ thiết bị nào
hỗ trợ định dạng FAT. Một trong những công cụ tốt nhất là REST2514 (
[You must be registered and logged in to see this link.].
Công cụ đơn giản đến kinh ngạc này sẽ rà quét bất kỳ ổ NTFS hay FAT32
nào và tìm lại được danh sách những những file đã bị xoá để từ đó khôi
phục lại được chúng. Chúng ta hãy cùng xem qua cách sử dụng:
- Khởi động Restoration:
- Chọn ổ bạn muốn quét trong “Drives” và ấn vào “’search by deleted files”:
Danh
sách những file bị xoá sẽ hiện ra. Để khôi phục 1 hoặc nhiều file,
highlight chúng và ấn ‘’restore by copying’’ sau đó chọn thư mục đến.
Lưu ý rằng tên file mà bạn đang tìm có thể sẽ bắt đầu bằng biểu tượng $,
vì đây là biểu tượng được hệ điều hành nối thêm vào dữ liệu khi nó bị
xoá.Cũng xin lưu ý rằng không như PC inspector, quá trình khôi phục
không phân loại những file bị xoá bằng folder, nó đơn giản chỉ để tất cả
vào trong một danh sách đơn, điều này sẽ làm việc tìm kiếm của bạn trở
nên khó khăn hơn.
Nếu file bạn cần không có trong danh sách, thử
search lại với tuỳ chọn ‘’include used clusters by other files’’. Việc
này sẽ bao gồm cả những file đã hiện lên trên danh sách trước đó. Chú ý
là điều này có thể giúp ích, có thể không vì điều này đồng nghĩa với
chuyện file của bạn có thể sẽ bị sửa đổi sai lệch đi hoặc không thể đọc
được.
4. Khôi phục dữ liệu từ thiết bị đã bị định dạng lại (Formatted):
Nếu
bạn đã format ổ lưu trữ flash của mình và muốn tìm lại nội dung trước
đó, bạn sẽ phải cần tới những công cụ mạnh hơn nhiều điển hình như Test
Disk miễn phí của CG-Security. Mặc dù việc sử dụng không đơn giản nhưng
hiệu quả mang lại rất lớn. Bản thân TestDisk không làm việc tốt trên
thiết bị bộ nhớ flash, nhưng điểm tốt là những phiên bản chương trình
gần đây đi kèm với một công cụ phần mềm khôi phục có tên gọi
PhotoRec.PhotoRec được thiết kế đặc biệt để phục hồi ảnh và những file
định dạng khác từ thiết bị nhớ flash.
- Sử dụng CGSecurity PhotoREC
+ Bạn cắm ổ vào máy và đảm bảo nó được nhận diện chính xác. Cài thêm phần mềm hỗ trợ đi kèm nếu cần thiết.
+
Download phiên bản mới nhất của TestDisk từ website của CGSecurity rồi
giải nén ra một thư mục trên đĩa cứng. Sau đó bạn mở thư mục con “win”
rồi click đúp vào biểu tượng PhotoREC để chạy chương trình.
- Tuy
chương trình không có giao diện đồ họa cho người dùng như bạn không cần
phải hoang mang vì trên thực tế PhotoREC được xem như là một công cụ dễ
sử dụng hơn người anh TestDisk của nó, một phần vì có những tuỳ chọn hữu
hiệu hơn.
Màn hình chính sẽ hiển thị danh sách những ổ gắn với hệ
thống, bao gồm cả thiết bị nhớ của bạn. Phương pháp dễ dàng nhất để xác
định ổ di động là nhìn vào kích thước của mỗi ổ (dựa theo Megabyte) vì
dung lượng ổ di động Flash thường khá nhỏ bé so với đĩa cứng. Thông
thường chương trình sẽ hiển thị danh sách những ổ cứng lên đầu tiên.
Tuỳ
thuộc vào kiểu dữ liệu bạn muốn khôi phục, bạn có thể sẽ muốn truy cập
vào thực đơn “File Options” trước khi tiếp tục. PhotoREC sử dụng tùy
chọn mặt định để tìm kiếm rất nhiều định dạng file nhưng các file BMP,
MP3, EXE và TXT không thuộc số đó. Nếu bạn muốn phục hồi những file này,
mở menu và cuộn xuống phía dưới tới mỗi mục nhập, nhấn spacebar để kích
hoạt chúng.
Sau đó, bạn phải chọn ổ cần thiết để bắt đầu quá trình
khôi phục bằng cách quay trở lại menu chính và lựa chọn từ danh sách các
ổ. Chuyển tới tuỳ chọn “Search” và ấn ENTER để bắt đầu quy trình tìm
kiếm các file thất lạc.
Chương trình sẽ bắt đầu tìm toàn bộ các dữ
liệu thông tin có trên ổ để xác định sự có mặt của một số dấu hiệu nhận
dạng chuẩn file. Tất cả những tập tin thỏa mãn yêu cầu sẽ được chuyển
vào một thư mục con trong thư mục chính của PhotoREC. Thư mục con này
được đặt là ‘’recup_dir.1′’. Mỗi lần bạn khởi động một quá trình khôi
phục mới, chương trình sẽ tạo một thư mục con mới là “’recup_dir.#” với #
là số thứ tự tăng dần. Khi quá trình kết thúc, Bạn tìm tới thư mục
‘recup_dir.#’ bằng Explorer và kiểm tra bất cứ file khôi phục nào.
PhotoREC sẽ lên danh sách chúng chỉ đơn giản như là F1, F2, F3…..nhưng
định dạng file sẽ hiển thị rõ ràng. Click đúp để mở mỗi file, sau đó
Rename và di chuyển những cái nào bạn muốn giữ lại.
5. Cố gắng phục hồi dữ liệu từ một ổ hỏng (Corrupted Drive)
Trong
phần này, tỉ lệ thành công của bạn sẽ tùy thuộc vào tình huống hỏng hóc
của thiết bị. Nếu hệ thống file bị hỏng do máy ảnh số hoặc một số thiết
bị khác thực thi những thao tác sai hoặc đọc không chính xác thẻ nhớ,
PhotoRec sẽ rất hữu ích để phục hồi lại dữ liệu của bạn bằng cách lặp
lại những bước đã nói trên. Tuy nhiên, nếu khả năng hoạt động của thiết
bị trở nên yếu do những hư hại tự nhiên hay hao mòn do sử dụng bình
thường gây ra, khả năng khôi phục lại dữ liệu còn phải phụ thuộc hoàn
toàn vào phần nào trên bộ nhớ flash bị hỏng. Có một ưu điểm của bộ nhớ
Flash là nó không chứa các thành phần cơ học chuyển động nên sẽ không
gây thêm thiệt hại khi người dùng cố gắng tìm cách cứu chữa thông tin.
PhotoRec
của SGSecurity là thích hợp nhất cho việc khởi đầu mọi cố gắng phục hồi
dữ liệu, nhưng nếu thất bại có một vài chương trình khác bạn có thể
thử. Chương trình Smart Recover của PC Inspector (
[You must be registered and logged in to see this link.] ) là một tiện ích miễn phí với giao diện thân thiệp nhưng nó kém linh động so với PhotoRec trong việc khôi phục dữ liệu.
6. Sử dụng mã hoá để bảo vệ dữ liệu:
Như
đã đề cập, lý do thường gặp nhất của việc mất dữ liệu trong thiết bị di
động Flash chính là do người dùng làm thất lạc chính thiết bị. Những
món đồ chơi càng nhỏ bé, tỉ lệ khả năng mất càng cao. Khi vấn đề xảy ra,
sự tiếc nuối dữ liệu và tài sản phần cứng chỉ là một phần nhỏ nếu như
số dữ liệu quan trọng đó rơi vào tay kẻ xấu đang muốn gây ảnh hưởng
không tốt tới công việc của bạn. Như vậy điều cần quan tầm ở đây là một
phương pháp có thể đảm bảo rằng kể cả khi bạn bị mất thiết bị ghi nhớ
thì những dữ liệu lưu trên đó sẽ trở nên vô dụng đối với người khác
ngoài chủ sở hữu thực sự. Mã hoá file là câu trả lời bạn mong đợi. Hiện
nay có nhiều phần mềm miễn phí hoặc mã nguồn mở cho phép mã hóa file sẵn
có, tuy nhiên một trong những chương trình thông dụng được yêu thích
nhất là AxCrypt của Axantum (
[You must be registered and logged in to see this link.].
Chương trình này tự thêm chỉ mục của nó vào menu phím phải chuột, cho
phép bạn mã hoá file bằng một cái click đúp. Mật khẩu được sử dụng cho
việc mã hoá cũng như giải mã file được tích hợp thẳng vào gói dữ liệu mã
hóa nên khi cần giải mã, bạn cũng không cần thiết phải cài đặt AxCrypt
mà chỉ cần thực thi file mã hóa là được. Nếu bạn đang phải lo lắng về
những hư hại xảy ra với dữ liệu do vô tình, AxCrypt là một biện pháp cứu
chữa nhanh và dễ dàng. Đơn giản chỉ là copy những file vào thiết bị lưu
trữ của bạn như bình thường, sau đó highlight tất cả, click chuột phải
và mã hoá chúng với password mà bạn lựa chọn mà thôi.
Nhìn chung,
bất kể thế nào thì phương châm “phòng hơn tránh” vẫn là giải pháp tối
ưu. Thay vì mất mát và cuống cuồng tìm cách khắc phục, hãy tìm nhưng
phương án an toàn từ trước như sử dụng các loại túi hay dây đeo chuyên
dụng, đảm bảo tỉnh táo trước khi thao tác. Nghiên cứu kĩ tài liệu của
các thiết bị đọc thẻ trước khi tiến hành một tác vụ… Đối với những thiết
bị chịu nhiều tác động của môi trường ví dụ như USB Flash, bạn nên chọn
những loại có khả năng chịu nước, chịu lửa và chịu va đập. Một số sản
phẩm như Flash Voyager của Corsair thậm chí còn chịu được vài chục nhát
búa mà không hề gặp bất cứ trục trặc nào. Tất cả chúng sẽ làm giảm bớt
cho bạn nhiều trục trặc không đáng có. Chúc bạn may mắn.
********************
Mười sự cố in ấn thường gặp và cách xử lýĐể giúp bạn tránh những sự cố trong khi in ấn, bài viết
này sẽ điểm qua một số trường hợp trục trặc thường gặp nhất và hướng
khắc phục chúng. Hy vọng qua bài viết này, bạn sẽ sử dụng chiếc máy in,
một trong những công cụ không thể thiếu trong công việc thường ngày ở
văn phòng, một cách hiệu quả hơn.1/
Không có gì xuất hiện khi bạn cố inKhông thể in bất
cứ nội dung gì là sự cố in thông thường nhất nhưng cách khắc phục thường
cũng đơn giản nhất: Bạn phải kiểm tra để xem dây nguồn của máy in đã
được cắm vào ổ điện, máy in đã được bật và nối với máy tính hay chưa
(!).
2/
Các lề và các ngắt dòng trên các trang của bạn đều không thích hợpCác
lề của bạn quá rộng hoặc bạn in trên giấy có kích cỡ không chính xác
(rất hay gặp nếu bạn nhận tài liệu từ một người khác). Trong trường hợp
này hãy chọn File/Page Setup, nhấn tab Paper trong hộp thoại Page Setup
và sau đó xem trong mục Paper Size để biết loại giấy Word sẽ dùng để in
tài liệu. Nếu bạn thấy mục Paper Size là “A4 210x297mm” thì đây là một
tiêu chuẩn kích cỡ giấy ngoại. Nhấp Cancel trong hộp thoại Page Setup và
thực hiện các bước sau đây để giải quyết vấn đề này :
+. Chọn Tools/Options để mở hộp thoại Options.
+. Chọn tab Print.
+. Chọn hộp kiểm Allow A4/Letter Paper Resizing nếu nó chưa được chọn và nhấp OK.
+. In tài liệu của bạn
3.
Bạn gặp sự cố trong việc in một tài liệu dài mà bạn đã chia thành các phần
Việc
in các tài liệu đã được tổ chức thành các phần riêng biệt là điều rắc
rối, đặc biệt nếu mỗi phần có sơ đồ đánh số riêng của nó (ví dụ, các
trang trong phần thứ nhất của tài liệu – phần mục lục chẳng hạn – không
được đánh số). Việc biết trang nào mà bạn đang xem và các trang nào để
in có thể là điều khó khăn. Thanh Status cho bạn biết rằng bạn đang ở
trang 8 nhưng tiêu đề trên trang 8 lại cho thấy rằng bạn đang ở trang 5
(trang thứ 5 trong phần hai). Vì thế, nếu một tài liệu được tổ chức
thành các phần có cách đánh số trang khác nhau, hãy in lần lượt từng
phần một.
4.
Các Fonts có diện mạo không thích hợp
Trước
tiên, bạn hãy xem tài liệu từ cửa sổ Print Layout để bạn có thể thấy các
font hiển thị như thế nào. Nếu chúng không hiển thị đúng thì có thể tài
liệu của bạn chứa các font mà máy in của bạn không hỗ trợ. Hãy thay thế
các font này bằng các font TrueType. Những font này có các mẫu tự “TT”
kế bên tên của chúng trên menu Font, có đặc điểm là hiển thị giống nhau
khi được xem trên màn hình và khi được in ra giấy.
5.
Hình ảnh không được in ra
Máy
tính của bạn có thể thiếu bộ nhớ. Thử tắt máy, khởi động lại máy tính
và in lại. Nếu như vậy vẫn không được gì, hãy kiểm tra những khả năng
dưới đây :
+ Chọn File/Print và nhấp nút Options trong hộp thoại
Print. Trong hộp thoại Print thứ hai, hãy đảm bảo hộp kiểm Drawing
Object đã được chọn.
+ Cũng trong hộp thoại Print thứ hai, hãy đánh
dấu vào hộp kiểm Draft Output để yêu cầu Word in các tài liệu với ít
định dạng hơn. Tùy chọn này dùng để làm việc với các tài liệu trong giai
đoạn sửa bản in.
6.
Một trang trống được in tại cuối tài liệu
Trang
trống được in ra bởi vì bạn để lại một vài đoạn trống ở cuối tài liệu.
Nhấn CTRL+ END để đi đến cuối tài liệu, nhấp nút Show/Hide để xem các ký
hiệu định dạng đoạn ở cuối văn bản và xoá các ký hiệu này.
7.
Header và Footer xuất hiện không chính xác
Nếu
header và footer của bạn không nằm vừa trên trang, không có đủ chỗ
trống trong lề dành cho header hay footer hoặc chúng nằm trong phần
không in ra của trang. Để tạo nhiều chỗ trống hơn cho các header và
footer, hãy chọn File/Page Setup, chọn tab Margin trong hộp thoại Page
Setup và phóng to lề trên và lề dưới. Đi đến tab Layout và tăng khoảng
cách From Edge để header và foooter không bị đẩy vào phần không in của
trang.
8.
Word không cho bạn chọn lệnh File -> Print
Nếu
lệnh File/Print mờ đi trên máy tính của bạn và bạn không thể chọn lệnh
này là do máy tính của bạn không biết rằng nó được liên kết với một máy
in. Hãy cài đặt lại máy in.
9.
Bạn không thể in các đường viền trang
Hầu
hết các máy in không thể in text hay hình ảnh nằm quá gần mép của
trang. Theo mặc định, các đường viền nằm gần mép của trang, đây là lý do
tại sao máy in của bạn không thể xử lý chúng. Hãy thực hiện các bước
sau đây để giải quyết sự cố này :
+. Chọn Format/Borders and Shading. Hộp thoại Borders and Shading xuất hiện
+. Chọn tab Page Boder
+. Nhấp nút Options để mở hộp thoại Borders and Shading Options.
+.
Bên dưới Margin, nhập các kích cỡ (tính theo điểm ảnh) lớn hơn vào các
hộp Top, Bottom, Left và Right để di chuyển các đường viền hơi ra xa
khỏi mép của trang.
+. Nhấp OK hai lần.
10.
Máy in của bạn in quá chậm
Tốc
độ in phụ thuộc vào tốc độ xử lý các yêu cầu in tài liệu. “In ở chế độ
nền “ nghĩa là Word có thể in các tệp trong khi bạn thực hiện những tác
vụ khác – định dạng một tài liệu hay nhập văn bản chẳng hạn. Bằng cách
tắt chế độ in nền, bạn yêu cầu Word dành tất cả nguồn tài nguyên của nó
vào tác vụ in và kết quả các tài liệu sẽ được in nhanh hơn. Tuy nhiên,
điểm bất lợi là bạn không thể thực hiện công việc nào cả trên tài liệu
khi nó đang được in ra.
Thực hiện các bước sau nếu bạn muốn tắt cơ chế in trong nền
- Chọn Tools/Options.
- Chọn tab Print trong hộp thoại Options.
- Hủy chọn hộp kiểm Background Printing và nhấp OK.
Một số lời khuyên khi sử dụng máy in để phục vụ cho việc in ấn
-
Bạn nên chọn mua chủng loại giấy in theo đúng yêu cầu của sách hướng
dẫn đi kèm, không nên mua những giấy in kém chất lượng (như quá mỏng
chẳng hạn) vì giấy chất lượng kém dễ bị kẹt trong khi in. Không nên để
giấy in trong môi trường ẩm ướt vì như vậy khi in có thể sẽ có các đốm
mực trên giấy.
- Luôn cập nhật trình điều khiển (driver) cho máy in
từ website của nhà sản xuất để cải thiện hoạt động của máy in như sửa
lỗi các sự cố in ấn trong máy và có thêm nhiều tính năng mới.
- Luôn
dành thời gian vệ sinh máy in hàng tuần, không để bụi bẩn bám vào máy
in hay giấy vụn sót lại trong máy vì nó sẽ dẫn đến hiện tượng kẹt giấy
và nhất là bạn phải giữ cho đầu in (printhead) luôn được sạch.
Hy vọng qua bài viết này công việc in ấn của bạn được suôn sẻ và trôi chảy hơn.
******************
Tối ưu hình ảnh cho màn hình LCDPhải dành phần lớn thời gian của mình làm việc trên máy tính, bạn
cảm thấy quá mệt mỏi, và không thoải mái khi làm việc với màn hình CRT
cũ kĩ. Sở hữu màn hình LCD cho công việc của mình không phải là yêu cầu
quá cao bởi giá cả và chủng loại màn hình LCD rất đa dạng, phong phú,
phù hợp với mọi yêu cầu của người sử dụng.
Tuy nhiên, để hiệu chỉnh màn hình LCD sao cho thích hợp, tối ưu
nhất thì lại hoàn toàn khác biệt so với màn hình CRT, mặc dù những thiết
lập cấu hình cũng không có nhiều khác biệt lắm so với CRT. Bài viết này
sẽ giúp bạn đọc tối ưu hình ảnh, đạt chất lượng tốt nhất với màn hình
LCD.
Cài đặt driver cho card đồ hoạ mới nhấtTrước hết, để
đạt chất lượng hình ảnh tốt nhất như mong muốn, một phần rất lớn còn
phụ thuộc vào card đồ hoạ và chipset của máy tính. Hãy đảm bảo chắc chắn
bạn đã cập nhật trình điều khiển (driver) cho card màn hình mới nhất,
đó là cách đơn giản và nhanh nhất để tối ưu chất lượng hình ảnh. Để nâng
cấp, hãy tải driver mới nhất về từ trang chủ của nhà sản xuất và thực
thi file cài đặt (.exe).
Trong một số trường hợp, bạn cần phải thực hiện cài đặt bằng tay. Trong Windows XP, nhấn chuột phải vào
My Computer, chọn
Properties, và chọn
Hardware,
Device Manager, và nhấn đúp vào mục “
Display adapters“. Tiếp theo, lựa chọn
Update Driver trong thẻ
Driver.
Lưu ý: Một số trình điều khiển yêu cầu khởi động lại PC. Bạn cũng không nên
tải các bản beta của những trình điều khiển này. Chúng đang được thử
nghiệm và rất có thể gây ra những lỗi không mong muốn.
Đọc văn bản rõ nét hơn với ClearType Chức năng ClearType trong Windows XP.
Windows XP hỗ trợ công nghệ ClearType cho phép làm phông chữ hiển
thị trơn tru và rõ nét hơn đối với các văn bản trên màn hình LCD. Để sử
dụng công nghệ này, hãy nhấn
Appearance -> Display Properties -> chọn Effects, và đánh dấu vào lựa chọn
Use the following method to smooth screen fonts, nhấn vào
ClearType từ menu đổ xuống. Nhấn
OK để hoàn thành.
Cập nhật DirectX mới nhất
DirectX
là một công nghệ của Windows nhằm nâng cao khả năng đồ hoạ và âm thanh.
Hãy cập nhật phiên bản DirectX mới nhất ( DirectX 9.0c). Bạn có thể
download dễ dàng phiên bản DirectX mới nhất tại trang chủ của
[You must be registered and logged in to see this link.]. Để biết mình đang sử dụng phiên bản DirectX nào, hãy nhấn
Start->Run, và gõ
dxdiag và nhấn
Enter. Tiếp theo nhấn vào tab
System để xem phiên bản bạn đang dùng.
Độ phân giải màn hìnhTrong
màn hình CRT, độ phân giải màn hình là những con số dots, pixel, để
biểu thị hình ảnh trên màn hình. Bạn có thể tăng độ phân giải lên cao
hơn, hoặc chỉnh xuống thấp tuỳ theo ý mình mà không làm ảnh hưởng tới
chất lượng hình ảnh. Tuy nhiên, điều này lại hoàn toàn không đúng với
LCD. Màn hình LCD sẽ hiển thị đẹp nhất và đem lại chất lượng cao nhất
chỉ với một độ phân giải chuẩn.
Hầu hết các màn hình LCD 15″ đều có
độ phân giải chuẩn 1024×768, trong khi đó, những màn hình 17″ hoặc 19″
cho độ phân giải tối ưu là 1280×1024. Khi điều chỉnh độ phân giải chuẩn
này sẽ làm giảm chất lượng hình ảnh, kích thước ảnh thay đổi, hoặc dẫn
tới méo ảnh, mất pixel… Tuy nhiên, có một ngoại lệ là khi tăng hay giảm
độ phân giải chỉ bằng một nửa độ phân giải chuẩn thì chất lượng hình ảnh
vẫn khá tốt. Chẳng hạn, độ phân giải nguyên thuỷ là 1600×1200 là khi
giảm xuống 800×600 thì chất lượng hình ảnh đạt chất lượng tốt và không
bị méo.
Chất lượng màuMàn hình càng hiển thị được nhiều
màu thì độ trung thực của hình ảnh càng cao. Hầu hết PC đều yêu cầu hỗ
trợ thiết lập màu cao nhất, thường là chế độ 32 bit màu. Nhưng nếu đang
sử dụng đồ hoạ tích hợp thì điều này có thể làm giảm hiệu năng máy tính,
hãy giảm lượng màu xuống còn 24 bit hoặc 16 bit để tăng tốc cho hệ
thống.
Tần số làm tươi (Refresh rate) và thời gian đáp ứng (response time)Màn
hình CRT thường bị nhấp nháy, gây mỏi mắt và khó chịu cho người sử
dụng, nguyên nhân có thể là do đặt tần số làm tươi quá thấp. Lời khuyên
hữu ích cho người sử dụng là nên đặt độ phân giải mà màn hình hỗ trợ tần
số làm tươi tối thiểu ở mức 72 Hz để tránh mỏi mắt.
Tuy nhiên, với
màn hình LCD, màn hình bị nhấp nháy không phải là vấn đề bởi thiết bị
này không làm tươi toàn bộ màn hình mà chỉ thay đổi điểm ảnh. Tần số làm
tươi chỉ ở 40 Hz cho tới 60 Hz đối với màn hình LCD cũng đủ tốt. Một
vấn đề cần khác cần phải chú ý đối với người sử dụng màn hình LCD mà đặc
biệt là các game thủ lại là thời gian đáp ứng của màn hình. Tần số đáp
ứng là khoảng thời gian cần thiết để một điểm ảnh cần phải được chuyển
từ đen sang trắng và lại chuyển sang đen. Những màn hình LCD cũ thường
có thời gian đáp ứng chậm hơn 20 ms nhưng gần đây những màn hình LCD mới
có thời gian đáp ứng nhanh hơn rất nhiều, màn hình cao cấp có thời gian
đáp ứng là 12 ms hoặc thấp hơn.
Tinh chỉnh bằng các nút điều khiển Khi
sử dụng màn hình LCD hoặc CRT, đừng ngại mò mẫm các nút điều chỉnh của
nó. Những thiết lập thích hợp có thể đem lại hình ảnh sắc nét và tuyệt
vời hơn rất nhiều so với thiết lập sẵn từ nhà sản xuất.
Màn hình LCD
thường dễ dàng điều chỉnh hơn nhiều so với CRT. Rất hiếm khi bạn phải
điều chỉnh màn ảnh sang bên trái, bên phải, đi lên hay xuống dưới… giống
như CRT. Mặc dù vậy, màn hình LCD cũng hỗ trợ nút bấm hoặc thiết lập tự
điều chỉnh vị trí của màn ảnh. Cuối cùng, màn hình LCD thường yêu cầu
ít tinh chỉnh màu sắc hay độ tương phản khi lựa chọn ở độ phân giải
chuẩn.
Độ sáng và độ tương phảnThiết lập độ sáng
quản lý cường độ sáng của màn hình. Màn hình LCD thường sáng hơn màn
hình CRT, vì vậy tăng độ sáng có thể là không cần thiết và đem lại kết
quả không mong muốn. Điều chỉnh độ tương phản sử dụng biểu đồ màu xám
như các chương trình như DisplayMate để đem lại khả năng thể hiện màu
xám tốt nhất. Màn hình LCD thường gây mất những chi tiết tối ở cuối dải
màu này.
Sắc thái và độ ấm của màuCó hai loại
nguồn sáng khác nhau là loại nguồn sáng trắng-xanh lạnh và nguồn sáng
trắng-đỏ nóng. Hầu hết các màn hình đều đưa ra ít nhất 3 lựa chọn và sắc
thái hoặc độ ấm của màu dựa theo nguồn sáng vị trí đặt màn hình. Những
thiết lập này được đặt nhãn là Mode1 , Mode 2, Mode 3 tương ứng với Cao,
Trung bình và Thấp. Ngoài ra, các nhà sản xuất thường đặt độ ấm của màu
sắc dựa theo độ Kelvin(K). Thông thường thiết lập chuẩn là 9300K hoặc
trung tính với 6500K và sắc thái hơi đỏ với 5000K. Rất nhiều loại LCD
cho phép người sử dụng tinh chỉnh màu sắc bằng cách cân bằng 3 màu cơ
bản đỏ, xanh da trời, và xanh lá cây.
Chuẩn đoán bệnh cho LCD
Màn
hình LCD thường dễ duy trì và bảo dưỡng hơn màn hình CRT. Tuy vậy,
trước khi mua sắm và sử dụng bạn cần chú ý tới những 2 “căn bệnh” khá
phổ biến của LCD:
Màn hình trốngNếu đèn nguồn vẫn
sáng mà lại không hiển thị hình ảnh, hãy kiểm tra kết nối giữa màn hình
LCD và PC để kiểm tra chắc ch